Chào mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Hiểu thế nào về Thăng Long tứ trấn

Thật ra gọi đầy đủ phải là Thăng Long tứ chính trấn, có nghĩa là: Bốn trấn chính của Thăng Long.
Thời Lê, theo phương vị, lấy kinh đô Thăng Long làm trung tâm và hệ quy chiếu, gọi bốn trấn giáp ranh, kề cận kinh đô như Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương là bốn chính trấn. Đó là Sơn Nam, gồm các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình sau này; Sơn Tây, gồm các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây sau này; Kinh Bắc, gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên sau này; Hải Dương, gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An sau này (Cần lưu ý, các cụm từ Thăng Long tứ trấn ngoài nội dung nói về địa lý hành chính của trấn xung quanh kinh đô Thăng Long, còn đồng âm với cụm từ nói về tín ngưỡng dân gian chỉ 4 ngôi đền thiêng trấn giữ kinh thành Thăng Long như sau: Đền Bạch Mã ở Hàng Buồm trấn giữ phía Đông kinh thành; Đền Linh Lang ở Thủ Lệ trấn giữ phía Tây kinh thành; Đền Cao Sơn ở Kim Liên trấn giữ phía Nam kinh thành; Đền Trấn Vũ ở Hồ Tây trấn giữ phía Bắc kinh thành). Bốn trấn này nằm quanh kinh đô nên cũng gọi là bốn nội trấn hoặc bốn kinh lộ/ kinh trấn, là những trấn phên giậu che chở cho kinh đô Thăng Long về các mặt an ninh, chính trị, đồng thời cũng là những nơi trực tiếp cung cấp lương thực, rau quả cập nhật cho kinh thành. Chẳng hạn như Phan Huy Chú, khi ghi chép về trấn Sơn Nam đã viết: "Thực là cái bình phong phên chắn của trung đô và là kho tàng của nhà vua".



Ngoài bốn kinh trấn, lại có các phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Hóa, Nghệ An, An Quảng, Thái Nguyên... cũng lại được coi là những nơi làm phên giậu che chở cho các kinh trấn.

Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (TK XV) cho biết ở các kinh trấn việc học hành phát đạt hơn ở các phiên trấn. Vùng phiên trấn vốn ở các nơi xa xôi, hẻo lánh, hoặc nơi theo sử cũ là các vùng biên viễn như châu Ái (Thanh Hóa), châu Hoan (Nghệ An), ngay từ thời Lý đã đổi gọi là trại. Đến thời Trần, chính sách văn hóa của triều đình đối với các vùng trại Thanh - Nghệ cũng có sự phân biệt đối xử nhất định. Chẳng hạn, cũng theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư thì vào năm Bính Dần, niên hiệu Thiệu Long 9 (1266) đời Trần Thái Tông, mở khoa thi chọn học trò, ban cho đỗ Kinh trạng nguyên Trần Cố, và Trại trạng nguyên Bạch Liêu (Kinh trạng nguyên có nghĩa là trạng nguyên quê ở vùng Kinh trấn, còn Trại trạng nguyên có nghĩa là trạng nguyên quê ở vùng trại). Thực ra, Trại trạng nguyên cũng có người không hẳn là kém tài hơn Kinh trạng nguyên. Nhưng nhìn chung thì cũng có thể non kém hơn chút ít và nhất là cái vẻ hào hoa, phong nhã, và nét thanh lịch thì không sánh bằng những con người ở kề cận kinh thành Thăng Long, nên sự đối xử của triều đình dường như cũng chưa thật coi trọng họ (Như trường hợp Trại trạng nguyên Bạch Liêu, vốn quê ở xứ Nghệ, là người "thông minh, nhớ lâu, đọc sách một mạch ngàn dòng"; vậy mà bấy giờ Thượng tướng Trần Quang Khải đang coi Nghệ An, cũng chỉ cho Bạch Liêu làm môn khách chứ không cho làm quan).

Trở lại cụm từ tứ chính trấn, do dân ta có thói quen hay nói tắt, nên đã thành ra tứ chính; rồi lại do thói quen hay nói chệch/ nói trại nên lại thành ra tứ chiếng. Tứ chiếng lúc đầu nguyên nghĩa chỉ bốn trấn quanh kinh đô như đã nói, nhưng lâu dần, lại hàm nghĩa rộng chỉ tứ phương, chỉ mọi miền đất nước nói chung. Và trong một chừng mực nào đó, cụm từ "Trai tứ chiếng, gái giang hồ" xưa, còn được hiểu là một lớp người không thuần nhất trong cộng đồng dân cư ở kinh thành Thăng Long.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Thăng Long - Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi

Những tên gọi của Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử?

- Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tuỳ (581 - 618), Đường (618 - 907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:

TÊN CHÍNH QUY:

Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

Long Đỗ:

Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy, Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

Tống Bình:

Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.

Đại La:

Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).

Thăng Long (Rồng bay lên).

Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).

Đông Đô:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).

Đông Quan:

Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).

Đông Kinh:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).

Bắc Thành:

Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).

Thăng Long (Thịnh vượng lên).

Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).

Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.

Hà Nội:
Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. H. 1960, tr 82).

TÊN KHÔNG CHÍNH QUY:

Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội:

Trường An (Tràng An):

Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.

Thí dụ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.

Phượng Thành (Phụng Thành):

Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng:

PHƯỢNG THÀNH XUÂN SẮC PHÚ
(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).

Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.

Long Biên:

Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau

Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!

:Dịch nghĩa:

Nhớ người vừa tự thành Long Biên về tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.

Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

Long Thành:

Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).

Hà Thành:

Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...

Hoàng Diệu:

Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.

Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).

Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.

Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được./.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Văn Miếu và tín ngưỡng trong văn hóa

Ngày 15-2-2003, tức đúng ngày Tết Nguyên tiêu (rằm Tháng Giêng năm Quý Mùi), một lễ hội thơ đầu tiên ở Việt Nam đã được tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Chọn một nơi như Văn Miếu để khai trương và tôn vinh truyền thống yêu văn thơ của dân tộc ta quả là một việc làm có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu trở lại cội nguồn lịch sử xa xưa của Văn Miếu, chúng ta sẽ tìm ra khái niệm này còn ẩn tàng nhiều giá trị về văn hóa - tín ngưỡng làm nên bề dày truyền thống tinh hoa dân tộc Việt Nam.

Với một diện tích hơn 54.000 m2, nằm giữa các phố Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu, Quốc Tử Giám… có thể nói tổng thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám chiếm một diện tích khá rộng so với Kinh thành Thăng Long ngày xưa (vốn chỉ giới hạn trong 4 cửa thành, 5 cửa ô chính sau này). Nhiều người thường hay gọi nơi này một cách ngắn gọn là Văn Miếu hoặc Quốc Tử Giám và cũng nhiều người vẫn nghĩ rằng đây là tên gọi khác nhau của một di tích. Thực ra, Văn Miếu và Quốc Tử Giám là hai công trình kiến trúc được xây dựng với hai mục đích ở hai thời điểm khác nhau. Văn Miếu ra đời năm 1070 còn Quốc Tử Giám thì mãi tới sáu năm sau (1076) mới có. Tuy nhiên, hai công trình này vẫn nằm trong một tổng thể kiến trúc rất hài hòa, ấy là do trước khi xây dựng, Vua Lý Nhân Tông đã trực tiếp xem xét và lên phương án rất kĩ. Hơn nữa, xuất phát từ truyền thống trước đó từ Trung Quốc, từ khi Nho giáo của Khổng Tử ra đời, nhiều Văn Miếu đã được dựng với quy mô và kiểu dáng khá giống nhau, như đều có các khu như Văn Miếu Môn, Đại Trung Môn, Khuê Văn Các, Đại Bái Đường,… Người đi tham quan nơi này ngạc nhiên về sự hài hòa và tôn nghiêm, như cảnh quan nơi đây như hội tụ được mọi tinh hoa của con người và trời đất.

Văn Miếu - chiết tự có nghĩa là "miếu thờ văn". Đây là một tín ngưỡng tôn vinh người sáng lập ra Nho giáo (*) và qua đó đề cao tinh thần học vấn mà ông đề xướng, như coi trọng sự học hành hiểu biết, từ đó coi trọng giá trị người thầy (tôn sư trọng đạo), coi trọng lễ nhạc, thơ ca… Văn: vẻ đẹp, văn chương, văn nho, văn đức, văn đạo, văn sách, tri thức… "Kẻ quân tử học rộng rãi ở văn, ước thúc bằng lễ thì có thể sống không trái đạo nghĩa" (Luận ngữ). Qua bao đời truyền tụng, chữ Văn còn được bồi đắp thêm nhiều nét nghĩa cực kì hàm súc, như một chữ của Thánh hiền, tôn thờ thành Đạo Nghĩa. Do vậy, khu chính của mọi Văn Miếu là Đại Bái Đường, nơi đặt bàn thờ Khổng Tử và được coi là nơi trang trọng tôn nghiêm nhất. Sách Khổng Tử răn dạy rất kĩ những điều phải tuân thủ mà người quân tử không được phép quên. Nho giáo có thể nói đã thâm nhập sâu vào cuộc sống tinh thần của người Việt và phát huy tính tích cực của nó. Nhà nước phong kiến cũng đã biết tận dụng ưu thế này để cai trị muôn dân. Do vậy, nhà vua cho xây Quốc Tử Giám làm nơi đào tạo nhân tài đất nước. Ta hay gọi nơi này bằng một tên gọi hình tượng là "trường đại học đầu tiên ở Việt Nam". Chính từ khi xây xong Quốc Tử Giám, việc dạy dỗ, đào tạo nhân tài ở nước ta mới đi vào chính quy và tuân thủ các quy tắc nghiêm ngặt của trường quy thi cử phong kiến. Quốc Tử Giám còn là nơi vua học, nơi dạy dỗ cho các con của nhà vua cũng như các bậc quan chức trong triều đình. Từ quan niệm "hiền tài là nguyên khí quốc gia", các triều vua Việt Nam đã liên tục mở các khoa thi lớn để chọn ra các nhân tài. Chỉ tính riêng từ năm 1442 đến 1787 đã mở được 124 khoa thi và chọn ra 2.260 tiến sĩ theo Nguyễn Văn Độ, đã dẫn). Quả là một kì tích. Những rùa đá lớn, nặng hàng tấn, được khắc chi chít trên mình trên tuổi của các vị tiến sĩ đã tạo ra một biểu tượng trang trọng và linh thiêng ở chốn tôn nghiêm này. Hình ảnh Hồ Chủ tịch chăm chú đọc bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám đã trở thành một hình ảnh vừa hào hùng vừa cảm động. Nó có giá trị như một ngọn cờ vẫy gọi mọi thế hệ cháu con trên con đường học vấn, nguyện đem tài trí của mình phụng sự đất nước.

Giờ đây, sau gần 10 thế kỷ thăng trầm, qua bao năm chiến tranh giặc giã, mặc dù Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã ít nhiều bị mai một, xuống cấp nhưng nơi đây vẫn là một di tích lịch sử văn hóa có một không hai của dân tộc. Nó hàm chứa tất cả những giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam từ bao đời nay. Và bây giờ, Văn Miếu trong tâm khảm chúng ta như một biểu trưng mang đậm chất văn hóa được tôn thêm bởi sắc màu tín ngưỡng. Giá trị tinh thần cao quý đến nỗi chúng ta coi đó như một huyền thoại để tôn thờ, là di sản bất diệt của ngàn năm văn hiến. Quả là hai yếu tố văn hóa và tín ngưỡng đã tích hợp, chìm vào trong nhau và lung linh tỏa sáng trong tâm hồn mỗi người Việt Nam, mãi mãi trường tồn cùng lịch sử.

Chú thích

(*) Miếu thờ Khổng Tử (Khổng Miếu) được lập tại nước Lỗ, Trung Quốc, vào năm 478 TCN.

Việt Báo (Theo: hanoivanhien.com)