Sự Phân Phối Tên Họ Tại Việt Nam

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Theo cuốn Họ và Tên người Việt Nam soạn bởi Tiến sĩ Lê Trung Hoa được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản (2005) , những họ phổ biến nhất Việt Nam là:

1. Nguyễn (38,4%)
2. Trần (11%)
3. Lê (9,5%)
4. Huỳnh (Hoàng) (5,1%)
5. Phạm (5%)
6. Phan (4,5%)
7. Vũ (Võ) (3,9%)
8. Đặng (2,1%)
9. Bùi (2%)
10. Đỗ (1,4%)
11. Hồ (1,3%)
12. Ngô (1,3%) <---
13. Dương (1%)

Một số họ phổ biến khác:

* Lý
* Vương
* Trịnh
* Trương
* Đinh
* Lâm
* Đoàn
--------------------------------------…
Sự Phân Phối Tên Họ Tại Việt Nam:
Sau khi biết số tên họ tại Việt Nam, một câu hỏi đặt ra là các dòng họ được phân phối thế nào? Một hiện tượng đúng cho mọi xã hội là quốc gia nào cũng chỉ có một số họ mà tỷ lệ dân chúng mang họ này nhiều hơn họ khác. Hiện nay, Việt Nam chưa có con số thống kê chính thức cho biết tên họ được phân phối ra sao. Do đó, chúng tôi trình bày vấn đề căn cứ trên tài liệu sách vở và nhận xét thực tế.

Người đầu tiên đề cập đến vấn đề này là học giả Pháp Pierre Gourou. Trong tác phẩm Les Paysans Du Delta Tonkinois, xuất bản năm 1936, tác giả cho biết 37% dân số đồng bằng Bắc Việt mang họ Nguyễn. Nếu chỉ tính tỉnh Bắc Ninh thì có tất cả 93 tên họ, trong đó 54% dân số mang họ Nguyễn. Riêng xã Đại Liễn, 99% dân số có họ Nguyễn, một làng họ Đinh. Riêng về họ Nguyễn tác giả Vũ Hiệp viết về tỷ lệ người Việt Nam mang họ Nguyễn như sau:

Khảo sát các lớp học nhiều cấp, từ tiểu học tới đại học ở ba miền đất nước, chúng tôi thống kê và thấy số sinh viên học sinh mang họ Nguyễn chiếm tỷ lệ 30% đến 35%, thậm chí có lớp học số học sinh họ Nguyễn chiếm 40% đến 45%. Nói chung, trong toàn quốc người Việt Nam mang họ Nguyễn có thể chiếm 33%. Như thế hiện nay (2000), nước ta có 74 triệu người thì số công dân Việt Nam mang họ Nguyễn đã có hơn 24 triệu người.

Đọc các tác phẩm địa phương chí, người ta thường thấy các thôn làng mang tên như Nguyễn Xá, Dương Xá, Cao Xá, Ngô Xá, Đặng Xá, Lưu Trạch, Đỗ Gia, Lý Trai. Các từ Nguyễn, Dương, Đỗ, Lý là tên họ, các từ Xá, Trạch, Gia, Trai có nghĩa là nhà. Chắc hẳn, lúc ban đầu những làng đó được thành lập do một dòng họ và sau này, cư dân đều là hậu duệ của người đã lập ra làng. Làng Dương Xá thuộc huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa có đến 80% cư dân mang họ Dương. Dương Tam Kha, theo Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, là người ở làng Dương Xá. Khi xưa, theo cách tổ chức làng xã, mỗi làng có nhiều giáp. Giáp có thể là tổ chức của các người cùng họ. Giáo sư Toan Ánh cho biết, làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có 10 giáp chia theo dòng họ. Giáp Ðoài to nhất gồm những người họ Ðặng Trần, thứ đến họ Khổng thuộc giáp Ðông.

Các dòng họ ít người coi nhau như có huyết thống nên không có các cuộc hôn nhân giữa những người cùng họ. Giáo sư Nghiêm Thẩm, trong tác phẩm Esquisse D’une Étude Sur Les Interdits Chez Les Vietnamiens, cho biết không bao giờ có cuộc hôn nhân giữa những người cùng họ Nghiêm.

Tài liệu sách vở không cho biết nhiều về sự phân phối tên họ tại Việt Nam. Nhưng, nếu xem các niên giám điện thoại, hoặc quan sát thực tế, ai cũng thấy các họ Nguyễn, Trần, Lê, Vũ, Phạm, Ngô là phổ biến nhất. Sau đó, đến các họ như Bùi, Chu (Châu), Cao, Dương, Đào, Đặng, Đinh, Đỗ, Hà, Hồ, Hoàng (Huỳnh), Lưu, Lâm, Mai, Phan, Phùng, Quan, Tạ, Tăng, Tô, Tôn, Tống, Thái, Trịnh, Triệu, Trương.

Vào năm 1972, căn cứ vào danh sách 34,857 cử tri xã Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Tỉnh Gia Định, chúng tôi thống kê thấy họ Nguyễn chiếm 32%, họ Trần 11%, họ Lê 10%, họ Phạm 7%. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao bất cứ quốc gia nào cũng chỉ có một số ít tên họ chiếm tỷ lệ dân số cao? Các nhà tính danh học trên thế giới chưa có lời giải thích cho vấn nạn này.