Chuyện Đông - Chuyện Tây: Huệ Thiên/An chi: Giải thích những vấn đề của mọi người

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
62. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Tại sao bộ đồ tắm hai mảnh lại được gọi là bikini? Nếu bi là hai thì kini là gì?

AN CHI: Ở đây, bi không có nghĩa là hai mà chỉ là một âm tiết vô nghĩa trong địa danh Bikini, tên một hòn đảo nhỏ trong quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương, nơi đã trở thành bãi thử vũ khí hạt nhân của Mỹ từ năm 1946. Những vụ thử này đã từng gây chấn động mạnh trong dư luận nên nhắc đến Bikini là nhắc đến những vụ gây chấn động như thế. Khi bộ đồ tắm hai mảnh cực nhỏ của phái đẹp ra đời thì nó cũng gây chấn động không kém gì những vụ Bikini vì với nó, lần đầu tiên, các tòa thiên nhiên của tạo hóa, trong đó có nhiều tòa tuyệt tác, đã được phô bày nơi công cộng (bãi biển, hồ bơi) một cách gần như trọn vẹn đến mức mãn nhãn, ngoại trừ mấy trọng điểm được che phủ một cách quá thiếu thốn. Do sự so sánh có tính chất ẩn dụ này mà bộ đồ tắm hai mảnh cực nhỏ đã được gọi là bikini.

Người ta còn chơi chữ bằng cách ngầm hiểu bi là hai để tạo thành danh từ chỉ “bộ đồ tắm” một mảnh của phái nữ (chỉ “gồm có” cái slip lẻ loi) là monokini (mono = một). Nhưng xin nhớ rằng đây chỉ là tên “bộ đồ tắm” một mảnh của phái đẹp chứ cái slip của nam giới nơi bãi biển hoặc hồ bơi thì lại chẳng được vinh dự mang tên đó mặc dù các đấng mày râu chẳng bao giờ mặc … soutien!
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
63. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Từ “mafia” do đâu mà có? Nó có ý nghĩa gì?

AN CHI: Mafia cũng viết là Maffia, là tiếng Ý. Theo Dominique và Michèlle Frémy, trong Quid 1986, thì từ này có thể có một trong ba nguồn gốc sau đây:

1. Do tiếng Ả Rập mu’afah, có nghĩa là sự che chở cho những người yếu kém.
2. Do phương ngữ Toscan maffia có nghĩa là sự khốn khổ.
3. Năm 1800, vua xứ Napoli là Ferdinand IV, lưu vong ở đảo Sicilia, đã lập ra một đội cảnh sát ngầm để có thể ngăn chặn một sự đổ bộ bất ngờ của quân đội Pháp. Người ta cho rằng ông đã lấy những chữ đầu của năm tiếng trong khẩu lệnh hồi 1282 mà đặt tên cho tổ chức này. Câu đó là Morte Alla Francia; Italia Anela có nghĩa là nước Pháp phải chết, nước Ý muốn như thế. (Trong trận đánh ở Sicilia năm 1282, quân Ý đã giết chết đến 8.000 quân Pháp). Ráp 5 chữ đầu đó lại thì sẽ có từ MAFIA.

Nhưng dù thuộc gốc nào thì danh từ Mafia ngày nay cũng không còn được hiểu theo nghĩa xưa của nó nữa. Ngày nay Mafia là con bạch tuộc khổng lổ và ghê gớm kiểm soát từ sản xuất nông nghiệp cho đến mua bán bất động sản, cờ bạc, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy, v.v… trên đảo Sicilia của nước Ý. Là chân rết của nó hoặc tương tự như nó, còn có các tổ chức như N’dranghetta ở Calabria (Ý), Camorra ở Napoli (Ý) và Cosa Nostra ở Mỹ.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
64. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Xin cho biết xuất xứ của mấy tiếng mã tà (lính cảnh sát thời trước).

AN CHI: Mã tà là do phiên âm từ tiếng Mã Lai manta-mata có nghĩa là cảnh sát. Hình thức gốc ban đầu là ma tà, theo ghi nhận của Huình-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quốc âm tự vị. Về sau, ma đã được phát âm thành mã. Xin nhớ rằng tiếng Việt, nhất là địa phương Nam Bộ, có nhiều từ gốc Mã Lai. Thêm một ví dụ: xà ích, người đánh xe ngựa, là do tiếng Mã Lai saïs.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
65. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Xin cho biết sự tích “kết cỏ ngậm vành”.

AN CHI: Thành ngữ tiếng Việt kết cỏ ngậm vành là dịch từ tiếng Hán kết thảo hàm hoàn, bắt nguồn từ hai sự tích riêng biệt. Ngụy Vũ Tử đời nhà Tấn rất yêu quí người vợ lẽ nên khi hấp hối thì dặn con trai là Ngụy Khỏa hãy chôn người vợ lẽ với mình. Ngụy Khỏa không đành lòng nên sau khi cha chết thì cho vợ lẽ của cha đi lấy chồng khác. Về sau, Khỏa đi đánh giặc, sắp thua tướng nhà Tần là Đỗ Hồi thì bỗng dưng thấy Hồi bị vướng cỏ mà ngã. Nhờ thế, Ngụy Khỏa bắt được Đỗ Hồi. Đêm về, Khỏa nằm mộng thấy có một ông già đến nói: “Cảm vì ông đã không chôn sống con gái tôi nên tôi đã kết cỏ làm vướng chân giặc để cứu ông”. Đó là chuyện kết cỏ.

Sau đây là chuyện ngậm vành: Đời nhà Hán có Dương Bảo mới lên chín tuổi đi chơi ở phía Bắc núi Hoa Âm, thấy một con chim sẻ vàng bị chim cắt cắn gần chết. Bảo đem về nuôi gần một trăm ngày chim mới khỏe lại rồi bay đi. Đêm ấy có đồng tử áo vàng miệng ngậm bốn chiếc vòng ngọc đến bái tạ mà nói: "Ta là sứ giả của Tây Vương Mẫu, trước đã nhờ người cứu vớt nên nay đến đền ơn người đây. Cầu cho con cháu người sau này cũng sẽ vinh hiển”. Người ta kể rằng quả nhiên về sau con của Bảo là Chấn, cháu là Bỉnh, chắt là Tứ và chít là Bưu đều được vinh hiển.

Thành ngữ kết cỏ ngậm vành về sau thường được dùng như một lời nguyền đền ơn đáp nghĩa trọng hậu.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
66. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Tại sao Phi-líp-pin (Philippines) là một nước Đông Nam Á mà lại có một tên rất Tây? Người Phi-líp-pin nói tiếng gì?

AN CHI: Nguyên Phi-líp-pin là thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1565, dưới triều vua Phi-líp đệ nhị. Để đánh dấu rằng đây là đất đai họ đã chiếm được dưới triều của Phi-líp (đệ nhị), tiếng Tây Ban Nha là Felipe, người Tây Ban Nha đã gọi đó là Islas Filipinas, nói tắt thành Filipinas. Đây là số nhiều của Filipina, giống cái của Filipino, nghĩa là thuộc về Felipe. Islas Filipinas là các hòn đảo của Phi-líp, người Pháp dịch thành Iles philippines, rồi nói tắt thành Philippines.

Người Phi-líp-pin nói tiếng Tagal (cũng gọi là Tagalog) là thứ tiếng được chọn làm ngôn ngữ quốc gia. Đây là một ngôn ngữ thuộc họ Mã Lai – Đa đảo (malayo-polynésien). Giành được độc lập năm 1946 từ tay Mỹ (Tây Ban Nha đã nhượng đảo quốc này cho Mỹ từ năm 1898), người Phi-líp-pin vẫn dựa theo tiếng Tây Ban Nha là Filipinas mà gọi tên nước mình là Pilipinas (tiếng Tagal không có âm f nên đã thay thế âm này bằng p).
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
67. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Từ điển Pháp Việt của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1981) đã giảng Cauris là “ốc tiền (vỏ ốc xưa dùng làm tiền ở châu Phi) còn Từ điển Anh Việt cũng của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1975) thì giảng Cowrie là: 1. Ốc tiền, 2. Tiền vỏ ốc (ở Nam Phi và Nam Á)”. Không thấy nói đến Trung Quốc. Vậy Trung Quốc xưa có dùng vỏ ốc làm tiền hay không?

AN CHI: Người Trung Hoa thời xưa vẫn có dùng vỏ ốc để làm tiền (dụng bối xác tác hóa tệ). Sò, ốc tiếng Hán gọi là bối, chữ Hán viết là 貝.

Các nhà khảo cổ học về Trung Hoa đã thống kê được trên 100 loại sò, ốc từng được dùng làm tiền nhưng chính con ốc tiền mới là phổ biến và thông dụng hơn hết. Con ốc này, tiếng Hán gọi là mã não bối. Vì nó được dùng làm tiền nên người ta gọi nó là hóa bối (ốc tiền). Do công dụng đặc biệt này mà người ta còn gọi nó là bửu bối (ốc quý). Lối nói này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và được dùng theo phép ẩn dụ để chỉ vật quý hiếm, vật hàm chứa phép lạ hoặc điều mầu nhiệm. Tiếng Pháp gọi ốc tiền là cauris, tiếng Anh là cowrie hoặc cowry, tiếng Nhật gọi là tử an bối (koyasugai); tên khoa học là Cypreae moneta. Bản thân chữ bối 貝 khi nó còn ở giai đoạn thực sự tượng hình, chính là hình một con ốc thò râu (xúc tu) ra khỏi vỏ. Hai nét làm thành chữ bát 八 ở phía dưới của chữ bối chính là hai cái râu đó. Quách Mạt Nhược còn khẳng định dứt khoát rằng chữ bối đích thị là tượng hình con ốc tiền nữa (X. Nô lệ chế thời đại, Bắc Kinh, 1973, tr. 280).

Chính vì con “bối” đã từng được dùng làm tiền cho nên trong chữ Hán, những chữ ghi lại các khái niệm có liên quan đến tiền đều thuộc bộ bối, như bần (nghèo), tiện (hèn), quý (sang), trữ (chứa), tham (ham tiền), mãi (mua), mại (bán), đổ (đánh bạc), v.v…

Vì nhu cầu trao đổi càng ngày càng phát triển mà ốc tiền lại càng ngày càng khó tìm nên về sau người ta phải nung ốc bằng gốm (đào bối), gọt ốc bằng xương (cốt bối), mài ốc bằng đá (thạch bối) thậm chí bằng ngọc (dao bối) mà làm tiền để đáp ứng nhu cầu đó. Cuối cùng người ta đã đúc ốc bằng đồng (đồng bối). Việc này đánh dấu sự ra đời của tiền bằng kim loại trong lịch sử tiền tệ Trung Hoa. Tiền đồng bắt đầu có từ đời Chu nhưng thời đó vỏ ốc vẫn còn tiếp tục được dùng để làm tiền. Chỉ đến đời Tần Thủy Hoàng thì việc này mới bị cấm hẳn.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
68. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Người ta nói rằng con cù là một loại rồng có thể chui dưới đất mà ngủ hàng trăm năm, mỗi lần nó thức dậy, chuyển mình thì trời long đất lở, sập nhà đổ cửa. Do đó mới có câu cù dậy, đúng không?

AN CHI: Quả thật mỗi lần cù dậy là một lần dông to gió lớn, có thể gây ra đổ cửa sập nhà. Nhưng cù dậy chỉ là một cách diễn đạt theo quan niệm và ngôn ngữ dân gian để chỉ hiện tượng thời tiết nói trên mà thôi. Sự thật thì chẳng có con cù nào đã dậy sau một giấc ngủ hàng trăm năm cả. Cũng như khi người ta nói gấu ăn trăng là người ta muốn chỉ hiện tượng nguyệt thực, nghĩa là hiện tượng mặt trăng bị tối một phần hoặc toàn phần trong một lúc vì đi vào vùng tối của trái đất. Chứ sự thật thì chẳng có chú gấu nào đã lấy mặt trăng làm đồ nhắm mà nhậu với ba xị đế cả. Hoặc nữa, khi người ta nói rồng hút nước thì cũng chẳng có con rồng nào bị cơn khát hành hạ. Đó chẳng qua là cột nước hoặc cột hơi nước chuyển động thành cơn xoáy do gió gây ra mà thôi.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
69. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Hình như theo xu hướng gần đây, có người trong giới nghiên cứu lại cho rằng con voi đã từng sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Hà của Trung Hoa. Điều lạ lùng này có thể nào đúng hay không?

AN CHI: Không phải là có người, mà là có nhiều người thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, đã khẳng định điều đó bằng những cứ liệu chắc chắn.

Về khảo cổ học, người ta đã nhiều lần đào được xương voi ở lưu vực sông Hoàng Hà. Điều này chứng tỏ rằng con voi đã từng sinh sống tại đây. Giáp cốt học (nghiên cứu nội dung những lời bói khắc trên yếm rùa hoặc xương thú thuộc đời nhà Thương, đào được ở An Dương, Hà Nam) cũng góp phần khẳng định điều này. Thí dụ trong một lời bói, người ta đã đọc được câu: “Đêm nay phải săn cho được một con voi”. Nếu giống voi đã không sinh sống tại đó thì người đời Thương lấy gì mà săn? Vật hậu học (phénologie) cũng góp phần của nó vào sự khẳng định trên đây. Người ta đã chứng minh rằng đời Thương (tk XVI đến tk XI tr.CN) khí hậu tỉnh Hà Nam thích hợp với các động vật nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại đây lúc bấy giờ cao hơn ngày nay 2°C còn mức chênh lệch của nhiệt độ trung bình trong tháng Giêng dương lịch là 3° đến 5°C. Bấy giờ cây tre đã mọc ở Hà Nam và con trâu cũng đã từng sống tại đó. Vậy không phải là lạ nếu bấy giờ ở đó có … voi. Về văn tự học, chữ Hán 爲 mà hiện nay đọc theo âm Hán-Việt là vi và có nghĩa là làm, chữ Hán đó ở trong giáp cốt văn đời Thương lại chính là hình một con voi. (Chữ này ngày nay chỉ còn được dùng theo lối giả tá, nghĩa là mượn âm và tự dạng của chữ sẵn có để ghi một từ có nghĩa khác). Ta không nên tưởng tượng rằng con vật đã làm “hình mẫu” cho cái chữ giáp cốt kia là con (hoặc những con) vật được tiến cống từ phương Nam nhiệt đới xa xôi mà nên bình tâm thừa nhận rằng đó phải là những con vật đã từng sinh sống tại nơi đã đào được xương của chúng. Tất cả những cứ liệu tóm tắt trên đây đều góp phần khẳng định rằng điều lạ lùng mà ông thắc mắc chính lại là chuyện có thật. Duy có điều là do khí hậu đã thay đổi cho nên ngày nay con voi không còn sống được ở Hà Nam – thuộc lưu vực sông Hoàng Hà – nữa mà thôi.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
70. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Con lợn của Epicure nghĩa là gì? Và chữ Epicure là tên của ai?

AN CHI: Epicure là một triết gia người Hy Lạp, sinh tại Samos (có thuyết nói là tại Athènes) năm 341 tr. CN. Cha ông, Néaclès, là một nhà giáo. Nối nghiệp cha, năm 311 ông mở trường dạy học ở Mytilène(*), trên đảo Lesbos. Năm 310, ông dời đến Lampsaque. Năm 306, ông đến Athènes. Tại đây ông đã tậu một khu vườn để mở trường. Do đó mà trường phái của Epicure đã được gọi là trường phái Vườn tược (tiếng Pháp: école du Jardin). Ông mất năm 270, thọ 71 tuổi. Epicure đã từng viết đến 300 chuyên luận nhưng tất cả đều đã thất truyền, ngoại trừ một vài bức thư và một số câu trích dẫn.

Con lợn của Epicure – dịch từ tiếng Pháp pourceau d’Epicure – là một danh ngữ dùng để chỉ đồ đệ của chủ nghĩa khoái lạc, nói nôm na là kẻ đam mê tửu sắc. Sở dĩ có lối nói này là vì người đời, khởi đầu là người đồng thời với Epicure, đã cho rằng ông rao giảng sự tận hưởng niềm vui xác thịt và những khoái cảm do giác quan đem lại. Có kẻ như Timocrate còn nói vu rằng Epicure đã mửa một ngày hai lần vì ăn uống quá no say, lại còn kể rằng ông đã tiêu xài cả một kho báu cho mỗi bữa ăn.

Thực tế thì lại khác hẳn. Ngày nay các nhà nghiên cứu đã đánh giá đúng con người và tư tưởng của Epicure. Jean Brun chẳng hạn, nhấn mạnh rằng một người đã biết hài lòng với chỉ bánh mì và nước lã, đã viết thư bảo môn đệ gửi đến cho mình một hũ nhỏ pho-mát để “chè chén”, đã sống đạm bạc đến mức gần như khổ hạnh thì làm sao có thể rao giảng chủ nghĩa khoái lạc được (X. L’épicurisme, Paris, 1974, p. 27). Còn chính Epicure thì đã nói về học thuyết của mình như sau: “Khi chúng tôi nói rằng niềm khoái lạc là điều thiện tối thượng, chúng tôi không nghĩ đến những sự thỏa thuê của những kẻ trụy lạc, cũng không phải những sự thỏa thuê liên quan đến sự thụ hưởng vật chất như một vài người đã nói vì họ không đồng ý với học thuyết của chúng tôi hoặc vì họ hiểu sai nó. Niềm khoái lạc mà chúng tôi nói đây liên quan đến sự bất tồn tại của nạn đau đớn thể xác và nỗi xáo động tâm hồn” (Dẫn theo J. Brun, sđd, tr. 94).

Nói về vai trò của Epicure, J. Brun viết: “Đó là một con người đã từng chiêm nghiệm sâu sắc về sự suy đồi và về các dạng khác nhau của chứng cuồng loạn tập thể (…) Ông muốn chỉ rõ cho con người rằng vì họ là những kẻ tác tạo ra sự sụp đổ của bản thân cho nên họ phải có khả năng trở thành những người làm chủ vận mệnh của chính mình” (Sđd, tr. 95).

Cá nhân chúng tôi thì lại rất tâm đắc với câu sau đây của Epicure: “Tôi hởi lòng hởi dạ vì khoái cảm xác thịt khi tôi tự nuôi sống mình bằng bánh mì và nước lã” (Dẫn theo J. Brun, sđd, tr. 95).
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
71. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Ông Tôn Thất Thuyết, chống Pháp, đã chạy qua Tàu và chết ở bên ấy. Người Tàu có viếng ông một đôi câu đối. Xin cho biết hai câu đối ấy.

AN CHI: Phong Châu đã ghi về đôi câu đối đó như sau:

“Thù Tây bất cộng đái thiên, vạn cổ anh hồn quy Tượng Quận;
Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt táng Long Châu”.

Dịch:

Thù Tây không đội trời chung, muôn thuở anh hồn về quận Tượng;
Giúp chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm xương nát gởi Long Châu”.

Có quyển viết là phương danh quy Tượng quận và tàn cốt ký Long Châu. (Câu đối Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 93).

Chúng tôi cho rằng chữ thứ 11 của câu sau có lẽ phải là ký (đối với quy ở câu trước), do lấy ở thành ngữ sinh ký tử quy (sống gởi thác về). Còn ở câu trước thì chúng tôi cho rằng anh hồn hợp và hay hơn là phương danh.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
72. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Trong một số tài liệu xưa về Công giáo bằng tiếng Việt có hai tiếng vít vồ. Vậy vít vồ là gì và đâu là nguồn gốc của nó?

AN CHI: Vít-vồ có nghĩa là giám mục. Đây là một từ phiên âm. Thanh Lãng đã cho rằng dạng phiên âm này bắt nguồn từ tiếng Ý cùng nghĩa là véscovo. Còn chúng tôi thì cho rằng nó bắt nguồn ở một từ cùng nghĩa trong tiếng Bồ Đào Nha là bispo. Xin nói thêm rằng tiếng Ý véscovo, tiếng Bồ Đào Nha bispo và tiếng Pháp évêque đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh episcopus.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
3. (KTTN 113, 7-1993)
Do tích gì mà người Anh lại gọi chú rể (bridegroom) là người giữ ngựa (groom) của cô dâu (bride)? Có chuyện gì na ná chuyện anh hoàng tế (rể của vua) được gọi là phò mã chăng?

AN CHI: Ở đây không có chuyện gì na ná chuyện đó vì bridegroom xét theo từ nguyên vốn không phải là chú giữ ngựa của cô dâu. Hình thái cổ đại của nó là brydguma. Bryd là cô dâu còn guma là người đàn ông, người anh hùng. Vậy brudguma là bậc tu mi của nàng dâu, là đấng anh hùng của nàng. Hình thái cổ đại này đã diễn tiến một cách tự nhiên sang hình thái trung đại tảo kỳ là brudgume, rồi mạt kỳ là bridegome. Đến đây thì bắt đầu có xảy ra sự cố: gome dần dần không còn được người Anh sử dụng như một hình vị độc lập nữa. Cuối cùng, ngoại trừ ở bridegome, nó đã không còn được phân bố trong cấu trúc từ pháp hoặc cú pháp nào khác. Vì không còn biết đến nó nữa nên ngay cả trong bridegome người Anh cũng không cảm nhận được rằng nó là một thành tố có nghĩa. Trong ý thức của họ, đó chỉ là bridegrome bị nói sai đi vì grome (= người giữ ngựa) mới có nghĩa chứ còn gome thì không. Và họ đã phục hồi dạng bridegrome theo kiểu từ nguyên dân gian (folk etymology) đó mà không hề ngờ rằng đây chỉ là một hình thái tiếm lập (intrusive). Do grome trở thành groom – y như lome (khung cửi) thành loom, blome (hoa) trở thành bloom, brome (cây chổi) trở thành broom, v.v… nên bridegrome đã trở thành bridegroom như đang biết hiện nay.

Vậy cứ theo hình thái hiện đại mà phân tích thì bridegroom quả là anh chàng giữ ngựa của cô dâu, nhưng xét theo từ nguyên thì đó chỉ có thể là người anh hùng của nàng mà thôi.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
74. (KTTN 113, 7-1993)
Tiếng Hán có lối nói lái như tiếng Việt hay không (thí dụ nói lái “đông tây” thành “đây tông”)? Và người Trung Hoa có chơi chữ bằng lối nói lái hay không?

AN CHI: Trong bài “Nói lái trong tiếng Việt” (Ngôn ngữ, số 3, 1971, tr.34-40 và 63), Lữ Huy Nguyên đã khẳng định rằng “tiếng Hán không có khả năng nói lái”. Đây là một điều sai lầm vì cấu trúc của âm tiết trong tiếng Hán, nhất là tiếng Hán cổ, đã cho nó một tiềm năng nói lái rất dồi dào. Chính tiềm năng này đã tạo ra cho âm vận học cổ điển Trung Hoa lối phiên thiết rất hữu hiệu để ghi âm chữ Hán trong các tự thư và vận thư. Phiên thiết chính là dữ kiện để nói lái. Không đi sâu vào những nguyên tắc ghi phiên thiết và đọc phiên thiết, chúng tôi chỉ xin nói rằng, nói chung, người ta chỉ cần nói lái hai tiếng (ghi bằng hai chữ) dùng để phiên thiết rồi lấy tiếng thứ nhất đã lái được: âm của tiếng này chính là âm của chữ đã được phiên thiết. Thí dụ chữ nhân 人 được phiên thiết thành như lân (Quảng vận, Đường vận) hoặc nhi lân (Tập vận, Vận hội, Chính vận). Nói lái thì như lân thành nhân lư, nhi lân thành nhân li. Nhân (tiếng thứ nhất đã lái được) chính là âm của chữ đang xét.

Người Trung Hoa cũng có chơi chữ bằng lối nói lái mà họ gọi là phiên ngữ. Một số nhà nghiên cứu của họ cũng đã có lưu tâm đến hiện tượng này, chẳng hạn Cố Viêm Vũ trong thiên Âm luận hoặc Lưu Phiến Toại trong Lục triều Đường đại phiên ngữ khảo, v.v…

Để dẫn chứng về lối chơi chữ này, xin nêu lên trường hợp của vua Tống Minh Đế (465-472) thời Nam Bắc Triều (420-589). Tương truyền rằng đây là một ông vua tính hay ghét người. Vì ghét Viên Xán mà tên cũ là Viên Mẫn nên ông ta đã nói lái tên của ông này thành vẫn môn. Ý muốn nói ông này vấp cửa mà té ngã (vẫn là rơi từ trên xuống, môn là cửa). Xin chú ý là ở thời đó, viên được đọc gần như vươn, mẫn gần như mỡn, vẫn gần như vỡn và môn thì đọc gần như mươn. Vậy Vươn Mỡn (nay là Viên Mẫn) nói lái thì thành vỡn mươn (nay là vẫn môn). Ông vua khó chịu đó cũng đã nói lái tên cũ của Lưu Thuyên là Lưu Thầm thành lâm thừu. Ý muốn nói rằng Lưu Thuyên rơi vào tình trạng bị thù ghét. Cũng xin chú ý rằng chữ thù (trong thù nghịch) đọc theo đúng âm Hán Việt chính thống hiện đại phải là thừu.

Vậy rõ ràng là tiếng Hán cũng có khả năng nói lái và người Trung Hoa cũng có lối chơi chữ bằng nói lái.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
75. (KTTN 113, 7-1993)
Nước “cam lồ” là nước gì?

AN CHI: Cam lồ là âm xưa của cam lộ (Ss. lõa lồ ~ lõa lộ, lăng loàn ~ lăng loạn, mồ (mả) ~ mộ, v.v…). Theo nghĩa đen thì cam là ngọt còn lộ là sương. Người ta thường cứ theo nghĩa đen mà giảng rằng cam lộ là một thứ “sương ngọt làm mát dịu lòng người”. Nhưng lộ không chỉ có nghĩa là sương mà còn có nghĩa là thứ rượu thơm ngon (Từ hải: tửu vi phương hương giả chi xưng) như trong mai quế lộ, tường vi lộ, v.v… Vậy cam lộ ở đây là một thứ rượu ngon ngọt.

Hai tiếng cam lộ đã được người Trung Hoa dùng để dịch tiếng Sanskrit amŗta mà nghĩa gốc là bất tử (a = phi, bất + mŗta = chết). Amŗta là hình thức tỉnh lược của amŗta-rasa có nghĩa là trường sinh tửu, bất tử lộ (amŗta = bất tử + rasa = thức uống). Trong huyền thoại Ấn Độ, amŗta là một thứ rượu có quyền năng kỳ bí được tạo ra khi các vị thần hoặc các con quỉ đánh cho biển sữa dậy lên. Tiếng Anh và tiếng Pháp phiên âm thành amrita. VẬy cam lộ, dịch từ tiếng Sanskrit amŗta, có nghĩa là rượu trường sinh. Người Trung Hoa cũng còn phiên âm từ Sanskrit này thành a mật lý đa.

Đoàn Trung Còn đã viết về cam lộ như sau: “Cũng dịch là Bất-tử tửu (Thuốc rượu uống chẳng chết), Trường sanh tửu (Thuốc rượu uống vào sống mãi), Thiên tửu (Thuốc rượu của chư Thiên). Ấy là thứ thuốc nước ngon ngọt, thơm tho, linh diệu, để làm đồ uống của chư Tiên, chư Thần: Cam lộ là chất thuốc Tiên, thuốc Phật, ngon ngọt và linh diệu hơn các thuốc phàm, hễ rưới lên mình ai thì người ấy dứt hết bệnh tật, dầu sắp chết cũng được sống lại.” (Phật học từ-điển, q. I, tr. 312-3).

Amŗta thường được so sánh với chất ambrosia (tiếng Pháp: ambroisie) là thức ăn của các vị thần trong huyền thoại Hy Lạp. Ai ăn được nó thì sẽ được trẻ, đẹp vĩnh viễn; các nữ thần còn dùng nó làm mỹ phẩm. Thần Zeus cũng dùng nó để xức những lọn tóc quăn của mình nữa. Chú ý: ambrosia là danh từ phái sinh từ ambrotos có cấu tạo hệt như amŗta, nghĩa là: a = (phi, bất) + mbrotos (nay brotos = chết).
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
76. (KTTN 113, 7-1993)
Tại sao biểu tượng SEA Games XVII 1993 tổ chức tại Singapore lại là con sư tử?

AN CHI: Vì SEA Games lần này được tổ chức tại Singapore mà Singapore có nghĩa là Thành phố Sư tử. Singapore (tiếng Anh) và Singapour (tiếng Pháp) là phiên âm từ tiếng Mã Lai Singapura, vẫn được xem là bắt nguồn từ tiếng Sanskrit Simhapura, trong đó Simha là sư tử, pura là thành phố (trong tiếng Mã Lai hiện nay singa là sư tử còn thành phố thì lại là puri).

Tuy nhiên, có người đã đưa một nguyên từ khác cho nguồn gốc của Singapura. Marc Reinhorn, trong Dictionnaire laotien-français (t.I, Paris, 1970, p.607, art. Siŋk’ápo) đã cho rằng đó là tiếng Sanskrit Śrngapura nghĩa là Thành phố Mũi đất. Tiếng Sanskrit śrnga có nghĩa là sừng, mũi nhọn, đỉnh, mũi đất, v.v… Kiến giải này không phải là không có lý vì Śrngapura có cấu tạo và ý nghĩa giống như tên Thành phố Mũi đất của Nam Phi mà tiếng Afrikaans (tiếng Hà Lan nói ở quốc gia Nam Phi và là một trong những ngôn ngữ chính thức của nước này) là Kaapstad còn tiếng Anh là Cape Town (Kaap = cape = mũi đất; stad = town = thành phố).
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
77. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Trong bài “Đôi điều thu lượm quanh Hán tự” (Văn nghệ, số 43, 1992), Nguyễn Dậu có nói rằng Nguyễn Du đã dùng nhầm mấy tiếng lầu xanh và thanh lâu “khiến cho mấy chục triệu người Việt đều nghĩ rằng lầu xanh là nơi ổ chứa ca kỹ (gái điếm)”. Ông nói rằng ở Trung Quốc, người ta không hề coi thanh lâu là ổ điếm mà lại hiểu đó là “nhà cao lầu của những người phú quí”. Vậy có đúng là Nguyễn Du đã nhầm hay không? Tác giả còn nói rằng do đọc sai mà “tất cả các nhà nho Việt Nam từ cổ đến giờ đều gọi hai cái hột của giống đực là dịch hoàn” nhưng “cả tỷ người Trung Hoa đều gọi là cao hoàn”. Có thật đúng như thế không?

AN CHI: Về hai tiếng thanh lâu, Từ hải đã giảng như sau:

1. Lầu Hưng Quang của Vũ đế, bên trên sơn xanh, người đời gọi là thanh lâu (Vũ Đế Hưng Quang lâu, thượng thi thanh tất, thế nhân vị chi thanh lâu).
2. Chỉ lầu gác của nhà hào phú (Vị hào gia chi lâu).
3. Chỉ lầu của người đẹp ở (Vị mỹ nhân sở cư chi lâu)
4. Chỉ nơi hành nghề của gái điếm (Vị kỹ viện dã)

Vậy Nguyễn Du đã không nhầm vì cái nghĩa do Nguyễn Dậu nêu lên chỉ là một trong bốn nghĩa của hai tiếng thanh lâu mà thôi.

Còn chuyện "hai cái hột của giống đực” thì lại hoàn toàn đúng như Nguyễn Dậu đã nêu. Đó là trướng hợp “tác đánh tộ, ngộ đánh quá” vì tự dạng của chữ dịch 睪 và chữ cao 睾 rất giống nhau: chúng chỉ khác nhau ở nét phẩy ' phía trên bên trái của chữ 睾 mà thôi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đều phiên âm đúng chữ đang xét là cao và đều giảng cao hoàn là “ngoại thận = hòn dái” (Đào Duy Anh), “hòn dái” (Nguyễn Quốc Hùng), “hạt dái” (Thiểu Chửu).

Trớ trêu là ngày nay hầu như không ai nói cao hoàn mà chỉ nói dịch hoàn. Hai tiếng này đã được Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng là “hai hòn dái của đàn ông và của một số động vật giống đực”. Còn Từ điển tiếng Việt 1992 thì ghi: “dịch hoàn, d.x. tinh hoàn” mà tinh hoàn thì được giảng là “cơ quan sinh ra tế bào sinh dục đực”. Rõ ràng là dùng từ sai đấy, nhưng chẳng biết có ai muốn sửa lại cho đúng hay không.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
78. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Trong câu :

Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người

Thì “chín bậc” có phải là “cửu phẩm” không và “phù đồ” là gì?

AN CHI: Phù Đồ (cũng như Phật Đà, Phật Đồ) vốn là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) của tiếng Sanskrit buddha, có nghĩa là Phật. Dần dần nó bị dùng sai đi vì được xem là đồng nghĩa với từ tháp, dạng tắt của tháp bà, phiên âm từ tiếng Sanskrit stupa.

Sau khi phù đồ được dùng theo nghĩa của tháp thì nó lại có thêm nghĩa phái sinh là cái chóp lộng (tán đỉnh) vì chóp lộng có hình dạng của một cái tháp tí hon. Thiên “Nghi vệ” trong Kim sử đã dùng danh từ phù đồ theo nghĩa này để ghi chép việc qui định cách thức và cấp bậc cho việc sử dụng các loại chóp lộng: kim phù đồ (chóp lộng bằng vàng), kim độ ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc mạ vàng), ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc), chu phù đồ (chóp lộng màu son) và thanh phù đồ (chóp lộng màu xanh).

Trong liên lục bát đã nêu, phù đồ chính là cái tháp, nghĩa là một công trình kiến trúc được xây lên để chôn xá lợi (tro xương) của đức Phật, của các bậc cao tăng, đại đức. Chín bậc không phải là cửu phẩm (chín phẩm trật của các quan) mà là cửu trùng (= chín tầng).
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
79. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Với bà Hồ Xuân Hương thì nương long có nghĩa là “ngực thiếu nữ”:

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Nhưng với một nhà thơ miền Nam cận đại có hai câu lục bát tả bốn cái khoái của con người thì nương long lại là “cái hậu môn”:

Cơm Phiến Mẫu, chiếu Trần Đoàn
Ngửa nghiêng loan phụng, nhẹ nhàng nương long.


Xin cho biết nghĩa nào đúng, nghĩa nào sai.

AN CHI: Ta thấy về cái khoái thứ nhất, tác giả không nhắc đến miệng mà nói “cơm Phiến Mẫu”; về cái khoái thứ hai, ông không nhắc đến hai con mắt mà nói “chiếu Trần Đoàn”; về cái khoái thứ ba, ông không nhắc đến cái … gì của nữ và của nam mà nói “ngửa nghiêng loan phụng”. Vậy về cái khoái thứ tư, lẽ nào ông lại phải nhắc đến “cửa sau”?

Nương long có nghĩa là ngực – không chỉ là ngực thiếu nữ - từ đó nó có một nghĩa rộng là khoang bụng, là dạ rồi từ nghĩa rộng này nó mới có nghĩa bóng là lòng dạ như đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của hoặc Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ.

Trong liên thơ lục bát trên đây, nương long đã được dùng theo nghĩa rộng (khoang bụng, dạ). Khi người ta đi chảy là người ta bị tháo dạ. Khi người ta ăn không tiêu là người ta bị cứng dạ (A. de Rhodes ghi trong Từ Điển Việt-Bồ-La: “Cứng dạ. Không tiêu, đầy cứng bụng”).

Còn khi người ta đi một cách bình thường, không quá chặt quá khó vì bị táo bón, cũng không … té re vì bị Tào Tháo rượt, thì người ta cảm thấy nhẹ bụng, êm dạ, nghĩa là nhẹ nhàng nương long. Vậy nương long không có nghĩa là hậu môn.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
80. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Xin cho biết “mặc cảm Ê-đíp” là gì. Có phải Ê-đíp là nhân vật huyền thoại đã giết cha để lấy mẹ hay không?

AN CHI: Oedipe (Ê-đíp) là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, đã giết cha là Laios, vua thành Thèbes (Xin phân biệt với Thèbes ở Ai Cập) – mà không biết đó là cha mình – rồi lấy mẹ là Jocaste – mà cũng không biết đó là mẹ mình – và đã có có với mẹ hai con trai là Etéocle và Polynice, hai con gái là Antigone và Ismène. Khi biết ra sự việc, Jocaste đã treo cổ tự tử còn Oedipe thì móc mắt để tự trừng phạt về tội giết cha và tội loạn luân với mẹ. Do tích này mà tiếng Pháp có danh từ oedipisme có nghĩa là tự móc mắt.

Mượn tên và tích của Oedipe từ huyền thoại trên, ông tổ của phân tâm học là Sigmund Freud đã tạo ra thuật ngữ mặc cảm Oedipe (tiếng Pháp: complexe d’Oedipe) mà ông giải thích như sau: “Trong khi mà nó hãy còn hoàn toàn trẻ thơ, đứa con trai bắt đầu cảm thấy một sự trìu mến đặc biệt đối với người mẹ: nó xem mẹ như là vật sở hữu riêng của nó, thấy nơi người cha một đối thủ tranh giành với nó quyền làm chủ vật sở hữu đó; giống như đứa con gái thấy nơi người mẹ một kẻ quấy rối những quan hệ quyến luyến của nó với người cha và chiếm một vị trí mà nó, đứa con gái, muốn được quyền độc chiếm (…) Thái độ đó (…) chúng tôi đặt cho cái tên là mặc cảm Oedipe” (Introduction à là psychanalyse, trad. fr. Paris, 1966, pp. 190-191).

Khi phân tích về chứng sợ (phobie) của đứa bé trai 5 tuổi mà mọi biểu hiện đã được cha nó tường thuật một cách chu đáo cho ông, Freud đã viết như sau: “Khi người ta làm dịu đi sự sợ hãi mà thằng bé cảm thấy trước người cha (…) nó đã bày tỏ cho biết nó thấy nơi người cha một đối thủ tranh giành với nó những sự ưu đãi của người mẹ mà những thôi thúc tính dục đầu tiên của nó được hướng tới một cách mơ hồ. Thế là nó đang lâm vào tình cảnh điển hình của đứa bé trai, tình cảnh mà chúng tôi gọi tên là mặc cảm Oedipe (…)” Totem et tabou, trad. fr., Paris, 1965, p. 149).

Tóm lại, mặc cảm Oedipe là hiện tượng mà Petit Larousse illustré 1992 đã định nghĩa như sau: "Toàn bộ những tình cảm yêu thương và thù nghịch mà mỗi đứa bé cảm thấy đối với cặp cha mẹ ( sự quyến luyến tính dục với người sinh thành khác giới tính và sự ganh ghét với người sinh thành cùng giới tính bị xem như là một địch thủ)".
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
81. (KTTN 115, ngày 01-8-1993)
Người ta thường nói bọn ăn chơi ngang tàng là “lục lăng cửu trối”. Vậy “lục lăng cửu trối” vốn có nghĩa gì và tại sao lại nói như thế?

AN CHI: Viết đúng chính tả thì đó là lục lăng củ trối. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng lục lăng là “đứa ngang tàng không biết phép” còn củ trối là “cái rễ lớn ở dưới sâu. Nguyên củ cái lâu nằm ở sâu, khó bấng khó đào”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng lục lăng củ trối là “hạng trẻ cứng đầu khó dậy, khó điều khiển”.

Lục lăng là do nói trại từ Lục Lâm mà ra. Hai tiếng Lục Lâm vốn là tên một ngọn núi ở phía Đông Bắc huyện Đương Dương, miền Kinh Châu, nằm trong dãy núi Đại Hồng, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) ngày nay. Núi này nguyên là nơi tụ tập của những người nổi dậy chống lại chính quyền Vương Mãng vào cuối đời Tây Hán. Sử Trung Quốc ngày nay gọi đó là cuộc khởi nghĩa Lục Lâm những nhà nước phong kiến Trung Hoa ngày xưa thì coi đó là giặc cho nên đã dùng hai tiếng lục lâm để chỉ những người chống chính quyền hoặc những tên bạo tặc cướp phá tài sản của dân lành. Nghĩa này đã được Mathews’ Chinese-English Dictionary ghi nhận là: “a bandit” (tên ăn cướp). Trong phương ngữ Nam Bộ, do không biết rõ xuất xứ nên nhiều người đã nói trại hai tiếng lục lâm thành lục lăng và hiểu là “đứa ngang tàng không biết phép” như đã dẫn ở bên trên.

Sau khi lục lâm bị nói trại thành lục lăng và được dùng theo nghĩa vừa nói thì nó còn được ghép với củ trối để tạo nên thành ngữ lục lăng củ trối. Ở đây, hai tiếng củ trối không còn có cái nghĩa mà Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng nữa. Nó đã được dùng để chỉ kẻ khó bảo, khó dạy, khó làm cho thay đổi, lay chuyển, ví như củ trối là rễ cái cứng chắc và ăn sâu xuống đất nên rất khó lay chuyển để bứng để nhổ vậy.

Theo cách hiểu đã trình bày thì lục lăng là kết quả nói trại của lục lâm, được ghép với củ trối để tạo nên thành ngữ lục lăng củ trối. Nhưng cũng có thể có một cách hiểu khác. Theo cách hiểu này thì đó là kết quả của lối nói trại thành ngữ tiếng Hán lục lâm thảo khấu: lục lâm thành lục lăng còn thảo khấu (giặc cỏ) thành củ trối.