Người dân Việt Nam vốn quen với nhiều dịp lễ hội trong năm với nhiều ý nghĩa ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Và trong từng cái tết ấy, đều chứa đựng một sự tích sâu xa ví như sự giao thoa với nền văn hóa khu vực, song đã được Việt hóa một cách tự nhiên và sâu sắc.
Từ Tết Nguyên Đán, đến tết Đoan Ngọ (5/5), tết Trung Thu (rằm tháng 8)... Và hôm nay, chúng ta lại đón một cái tết cũng rất ý nghĩa, đó là tết Thanh minh
Thanh minh vừa là ngày lễ vừa là ngày hội vui như ngày tết. Chính vì thế người ta mới coi Thanh minh là một ngày tết trong những ngày tết của Việt Nam.
Nguồn gốc tết Thanh minh
Tết Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Tết Thanh minh Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một lễ tiết hàng năm. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa là sang tiết Thanh Minh (thường bắt đầu trong tháng ba hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tuỳ từng năm).
Thanh Minh là tiết thứ 5 trong 24 tiết của một năm, đây là dịp tiết trời trong sáng mát mẻ nhất của năm, và ngày tiết Thanh Minh cách ngày tiết lập xuân 60 ngày.
Tục lệ đón tết thanh minh
Thanh Minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người Việt ta - bổn phận của con cháu phải tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước, đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa - gọi là đền đáp nghĩa một phần nào cái ơn sinh thành tạo dựng của tổ tiên - của những người quá cố.
Tục Tảo mộ
Nhân ngày Thanh Minh, người dân các nước có nền văn hóa tương đồng và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đều có tục đi tảo mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ.
Theo thông lệ từ trước đến nay cứ sau tháng Giêng là người ta đã lo việc đắp mộ cho những người quá cố. Trước Thanh Minh một ngày, để đi cúng mộ người ta đã chuẩn bị một bộ tam sinh, giấy ngũ sắc, nhang, đèn, giấy tiền, vàng bạc, quần áo giấy...và các loại bánh trái, thức ăn, thức uống khác tùy sở thích của mỗi nhà; bộ tam sinh dùng để tế trong các đại lễ ngày xưa là ba con vật: bò, heo, dê.
Ngày nay tùy theo tập quán của mỗi địa phương và hoàn cảnh của mỗi gia đình, người ta chọn bộ tam sinh cũng khác nhau, nhưng heo thì không thể thiếu. Nhà giàu thì dùng cả con heo để cúng tế và mời cả họ hàng thân tộc cùng ăn. Nhà nghèo thì một miếng thịt heo luộc, một con khô mực nhỏ, hai hột vịt hoặc con cua, con tôm luộc gì đó cũng đủ.
Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất.
Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng.
Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình.
Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, chăm sóc cẩn thận, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người đi viếng mộ thường cũng cắm cho các ngôi mộ này một nén hương.
Ngoài tục lệ trên, người Việt Nam còn có tục lệ làm bánh trôi, bánh chay thắp hương, sau đó cả gia đình quây quần bên nhau thưởng thức hương vị đậm đà của món bánh này.
Từ Tết Nguyên Đán, đến tết Đoan Ngọ (5/5), tết Trung Thu (rằm tháng 8)... Và hôm nay, chúng ta lại đón một cái tết cũng rất ý nghĩa, đó là tết Thanh minh
Thanh minh vừa là ngày lễ vừa là ngày hội vui như ngày tết. Chính vì thế người ta mới coi Thanh minh là một ngày tết trong những ngày tết của Việt Nam.
Nguồn gốc tết Thanh minh
Tết Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Tết Thanh minh Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một lễ tiết hàng năm. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa là sang tiết Thanh Minh (thường bắt đầu trong tháng ba hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tuỳ từng năm).
Thanh Minh là tiết thứ 5 trong 24 tiết của một năm, đây là dịp tiết trời trong sáng mát mẻ nhất của năm, và ngày tiết Thanh Minh cách ngày tiết lập xuân 60 ngày.
Tục lệ đón tết thanh minh
Thanh Minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người Việt ta - bổn phận của con cháu phải tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước, đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa - gọi là đền đáp nghĩa một phần nào cái ơn sinh thành tạo dựng của tổ tiên - của những người quá cố.
Tục Tảo mộ
Nhân ngày Thanh Minh, người dân các nước có nền văn hóa tương đồng và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đều có tục đi tảo mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ.
Theo thông lệ từ trước đến nay cứ sau tháng Giêng là người ta đã lo việc đắp mộ cho những người quá cố. Trước Thanh Minh một ngày, để đi cúng mộ người ta đã chuẩn bị một bộ tam sinh, giấy ngũ sắc, nhang, đèn, giấy tiền, vàng bạc, quần áo giấy...và các loại bánh trái, thức ăn, thức uống khác tùy sở thích của mỗi nhà; bộ tam sinh dùng để tế trong các đại lễ ngày xưa là ba con vật: bò, heo, dê.
Ngày nay tùy theo tập quán của mỗi địa phương và hoàn cảnh của mỗi gia đình, người ta chọn bộ tam sinh cũng khác nhau, nhưng heo thì không thể thiếu. Nhà giàu thì dùng cả con heo để cúng tế và mời cả họ hàng thân tộc cùng ăn. Nhà nghèo thì một miếng thịt heo luộc, một con khô mực nhỏ, hai hột vịt hoặc con cua, con tôm luộc gì đó cũng đủ.
Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất.
Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng.
Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình.
Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, chăm sóc cẩn thận, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người đi viếng mộ thường cũng cắm cho các ngôi mộ này một nén hương.
Ngoài tục lệ trên, người Việt Nam còn có tục lệ làm bánh trôi, bánh chay thắp hương, sau đó cả gia đình quây quần bên nhau thưởng thức hương vị đậm đà của món bánh này.