Khởi đăng : Sưu tầm các Món ăn tại các Vùng Miền của Tổ quốc

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Ẩm thực đất Sơn tây quê mình ưu tiên nhé:

Dơi, cá chép, cua và rau muống là bốn sản vật quý đất Sơn Tây xưa thường để tiến vua. Ở Sài Sơn có loài dơi quý, thịt rán thơm, ngon mà không cần ướp gia vị. Khi đặt miếng thịt dơi vào lưỡi cảm nhận có mùi thơm của quả chín.

Loài dơi chỉ ăn quả chín khác với loài dơi ăn muỗi. Thịt dơi ăn có thể là loại dơi "trung cách" vì ở ức nó có lông mầu vàng nhạt. Còn "thượng cách" là dơi có lông mầu trắng (bạch dơi).

Bắt loại dơi này cũng không phải dễ dàng, chỉ bắt được vào những tháng đông - xuân trời rét. Những người đi săn phải lên núi từ chập tối ngồi đợi trong hang đá chịu khí lạnh buốt cho sạch hơi người, chăng lưới chờ đến nửa đêm đàn dơi đi ăn đêm về ùa vào hang thì chụp lưới bắt.

Thịt loài dơi ngon mà theo các cụ cao niên nói nó còn chữa được nhiều bệnh. Đây là loài dơi quý mà trong sách Đại Nam nhất thống chí đã nói đến... Ngày trước hằng năm phải bắt để dâng vua.

Xã Cấn Hữu (huyện Quốc Oai) Hà Tây nổi tiếng với câu "Cấn Xá chi lý ngư", bởi ở đây có loài cá chép đặc biệt vây mầu vàng, đuôi đỏ hồng, đầu béo múp trông đẹp như con cá chép trong tranh "lý ngư vọng nguyệt".

Loài cá chép này chỉ sinh sản trong một cái đầm rộng và sâu gọi là đầm Bung. Ngày trước mỗi năm dân làng Cấn có một ngày đi đánh cá đầm Bung. Cá chép đầm này thịt béo mà không ngấy, mềm mà không nát. Khi bắt được cá, chọn con to, đẹp để tiến vua.

Thôn Khánh Hiệp (thuộc xã, Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ) ngày trước có gò Ma Khống. Ở gò này có một loài cua sinh sống. Cua mình to bằng cái bát ăn cơm, mai mầu vàng rộm. Mỗi năm, người ta chỉ thấy cua bò ra ngoài một lần vào một ngày bất thường. Nên ai trông thấy phải thông báo để mọi người đến bắt đem tiến vua.

Rau muống ở Linh Chiểu (Phúc Thọ) cũng được trồng bình thường như ở mọi nơi. Nhưng ngày xưa khi đem rau tiến vua thì rau muống lại được trồng một cách độc đáo.

Người ta bắt những con ốc to đem về làm cho ốc chết, rồi cấy mầm rau muống vào từng con ốc đó. Mầm rau muống sống lớn lên nhờ chất của con ốc. Khi rau muống dài độ một gang tay thì người ta mang những con ốc - rau muống (để nguyên như thế) đem tiến vua.

(Theo Văn Hoá Nghệ Thuật Ăn Uống)
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Sau đây là những món ăn đặc sản của Hà tây quê lụa:

Nem Phùng - Đặc sản ẩm thực Hà Tây

Giò Chèm, nem Phùng" là thành ngữ chỉ hai món ăn chế biến từ thịt lợn, ngon có tiếng ở miền bắc.


Nem thì rất nhiều nơi có, nhưng nổi tiếng nhất là nem Phùng. Nó đặc biệt, bởi ngay từ khi chọn nguyên liệu đã rất cầu kỳ, phải kén thứ thịt nạc của giống lợn lông ấp thịt mới ráo, mềm mà ngọt, bì mới không dai mà giòn. Song món ăn này ngon là do khéo chế biến.

Trước hết, phiến thịt nạc phải pha ra từng thỏi, đem chần trong nước sôi, vớt ra để ráo rồi mới thái thành chỉ. Những sợi thịt khi ấy mới chỉ là chín tái. Để cho chín ngấu, phải có một thứ men xúc tác, đó là "thính", gồm tỷ lệ 7 phần gạo tẻ, 1 phần gạo nếp, 2 phần đậu tương. Điều quan trọng là cả 3 thứ này phải rang thật khéo, vàng đều, giã nhỏ, trộn vào thịt đã thái để ủ.

Có một "bí quyết" nhỏ: bì lợn phải luộc hai lần, lọc hết mỡ, khi mảnh bì mỏng và trong chỉ còn như mảnh bìa cứng đựng hồ sơ bằng nhựa, thì mới thái nhỏ như sợi miến Tàu và trộn đều với thịt đã ủ thính rang, rồi bọc lá sung non, gói trong lá chuối tươi, buộc bằng sợi giang nhuộm đỏ, tùy theo nhu cầu to nhỏ, gọi là "quả nem".

Mỗi quả nem thành phẩm như thế, có thể ăn ngay, cũng có thể để dành. Mùa hè giữ được hai ngày, mùa đông giữ được bốn ngày, nếu giữ trong tủ lạnh thì được một tuần. Đây là một món ăn khoái khẩu mà thanh tao. Nói chung thực khách đều mê, bởi nó lạ miệng ở những vị ngọt, bùi, thơm, béo, giòn sậm sựt...

Sản phẩm này là món cổ truyền của một gia đình ở thị trấn Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) mà nay đã đi vào ca dao, trở thành "món nhớ" nhiều người: "Nem Phùng ăn với lá sung/ Cho người tứ xứ nhớ nhung một đời!".

Ngày nay, ở Phùng, người cháu trai đời thứ sáu dòng đích của người sáng tạo ra món nem này và ở Hà Nội cô cháu gái ngoại cũng đời thứ sáu, ngụ tại phố Hàng Bún, hằng ngày vẫn đang cung cấp món đặc sản này phục vụ thực khách bốn phương.

Mơ Chùa Hương

Ngoại trừ giống mơ làng Đông Phù Liệt của cụ Mai Lâm đang ngày càng bị mai một, mơ chùa Hương được xem là thứ mơ ngon nhất. Quả nhỏ, mầu vàng hươm, có một lớp lông tơ mịn có mùi thơm và vị chua dìu dịu. Mơ chùa Hương vừa có thể ngâm đường làm nước giải khát vừa bổ vừa ngon trong mùa hè; hoặc làm ô mai cũng được ưa thích.

Chùa Hương có bao nhiêu điều kỳ diệu, nếu một đời người chưa một lần vãn cảnh thì thật đáng tiếc. Đó là chưa kể đến sức hấp dẫn của một thứ quả chua: mơ, Hoa mơ nở lấp lóa ngay từ tháng chạp.

Mùng 6 tết mở cửa rừng, bắt đầu lễ hội kéo dài suốt mùa xuân. Trên dòng suối Yến xuôi ngược những con đò và bóng TTTg sắc đỏ hoa gạo xứ quê, ấy là lúc hoa mơ đã ngậm gió sương để làm ra thứ quả xanh non.

Vào cuối tháng hai, đầu tháng ba, khi trèo núi đã mỏi, dừng bên dốc đá, du khách sẽ ứa nước miếng khi nhìn thấy thứ quả mơ thơm lựng, giòn tan, chua dịu.

Mơ chùa Hương nhỏ quả, vàng hươm, mịn một lớp lông tơ như nhung tuyết, đôi chỗ vỏ lấm tấm một chút đỏ hồng.

Hình như xưa nay ngoài chàng Nguyễn Bính ngắm theo người con gái hái mơ thì ai đi chùa Hương cũng không thể không mang về một ít mơ, hương đất Phật về làm quà cho người ở nhà.

Mơ ăn ngay trong Hương Sơn thường là mơ tươi. Còn ở Hà Nội, tháng ba, trên nhiều đoạn phố ta thấy những rổ mơ mầu, vàng mờ, vàng thổ, vàng chanh. Trong đó có mơ chùa Hương đã về góp quà xuân cùng Hà Nội. Phụ nữ Hà Nội mua mơ để chế "sirô" mơ, dự trữ cho mùa hè sắp đến.

Cứ một cân mơ tươi (ngon nhất, thơm nhất vẫn là mơ chùa Hương vàng tươi nhỏ quả, thơm phức) thì một cân đường, để trong thố thủy tinh sạch sẽ, vài ba tháng sau, sẽ có một bình nước mơ đặc quánh. Mùa hè nóng nực mà được uống một cốc nước mơ thì thật sảng khoái.

Ô mai là quả mơ ngâm muối phơi khô. Ngày phơi, đêm ngâm, trên da nó cò.


Cháo vịt Vân Đình


Mỗi lần đi qua Vân Đình (Ứng Hòa, Hà Tây), chẳng mấy du khách quên ghé vào quán nhỏ bên đường thưởng thức bát cháo vịt cho ấm bụng.

Vịt luộc chín, chặt miếng, còn nước luộc dành để nấu cháo. Để có được một nồi cháo thật sánh, ngậy thơm, có màu vàng nâu, đó là kinh nghiệm và bí quyết gia truyền của người làm.

Khi bát cháo còn nóng hôi hổi được đặt trước mặt, người thưởng thức vội vàng đảo đều từ dưới lên sao cho thịt, hành lá, rau răm và chút nước mắm thơm lừng quyện đều vào nhau, làm tăng thêm vị đậm đà, thơm ngon, vừa lòng cả những thực khách có thói quen “ăn bằng mắt”.

Thưởng thức cháo vịt, muốn cảm nhận hết cái ngon của món ăn qua các giác quan, người ta phải đến vào các buổi chiều. Còn khách sành ăn khi qua Vân Đình sẽ bắt đầu bằng bát tiết canh, hay nhâm nhi vài chén cay với đĩa thịt vịt vàng thơm, béo ngậy, rồi sau đó mới nếm chút cháo cho ấm dạ, ấm lòng. Có gì tuyệt hơn khi trên quãng đường dài mỏi mệt, ta cùng người thân dừng lại chốn này, xì xụp bát cháo còn nghi ngút khói trong tiết chiều muộn nơi thôn dã.

Tương mía

Nếu như miền nam có các loại mắm đặc biệt: Mắm cái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm cá trèn... thì miền bắc cũng có các loại tương nổi tiếng: Tương Nam Đàn (Nghệ An), tương Bần (Bần Yên Nhân, Hưng Yên), tương Cự Đà (Thanh Oai, Hà Tây). Nhưng vẫn có cái gì đó khang khác so với tương làng tôi: Tương Mía. Nói là Mía nhưng nổi tiếng vẫn là tương cụ Đá làng Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Tây). Sự nổi tiếng đó đứng đầu bài Đồng dao "Các đặc sản" mà tuổi thơ chúng tôi vẫn thường nghêu ngao hát khắp làng: Tương cụ Đá, cá cụ Hỹ...

Làm tương vốn là công việc thường niên của các cộng đồng cư dân nông nghiệp miền bắc. Làng tôi cũng vậy, nhà nào cũng phải có một chum tương. Có chum tương như một biểu hiện về sự nền nếp, cơ bản nông gia. Cách làm tương na ná giống nhau nhưng các cụ bảo do "tay" nên mỗi nhà mỗi vị, mỗi mùi và cũng từ đây mới quyết định nét độc đáo riêng biệt của từng nhà.

"Tháng sáu máu rồng", đó là tháng mà các bà, các chị trổ tài nội trợ của mình trong món thực phẩm đặc biệt đó. Riêng nhà cụ Đá chuẩn bị tỷ mỉ lắm! Bắt đầu là gạo, thứ tốt là nếp cái hoa vàng thì sau này tương mới đậm ngọt, sánh quyện và mùi thơm mới biểu hiện, gạo cho vào xay giã, dần sàng cho bóng lên, hạt hạt như con ong, không còn hạt đỡn, gẫy... ngâm kỹ, đãi sạch và đồ thành xôi. Xôi đem vào ủ mốc, ủ khéo mới có mầu hoa cải, đó là mầu đẹp nhất của mốc. Người làm có nhiều kinh nghiệm mới đạt được mầu như ý. Thường thường các chị, các cô vẫn phải nhờ đến các cụ già trong làng sáng sáng, chiều chiều thăm nom chu đáo, cẩn thận lắm mới vừa.

Riêng đối với nhà cụ Đá còn phải qua một giai đoạn nữa mới đạt đến độ tuyệt hảo! Đó là bí quyết, đó là kinh nghiệm gia truyền không ai làm nổi. Khách đến đúng vào giai đoạn làm "mốc mật" sẽ thấy một loạt mấy chục cái bát sứ cổ kiểu "móng ngựa", hai chiếc úp một, trong bát đựng mốc đã ủ có mầu hoa cải. Tất cả đều được xếp cẩn thận dưới gầm "nhang án" (bàn thờ), thỉnh thoảng thấy cụ lật lên lật xuống, khi nào mốc trong bát nhẹ như núm bông.

Bánh gai làng Giá

Bánh gai được làm từ lá gai, bột nếp, đường phên, đậu xanh, có ở nhiều vùng quê phía bắc. Làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, nơi có những luống cây gai trồng xanh mướt bãi sông Đáy làm ra thứ bánh gai có vị thơm, ngọt, bùi, béo.

Ăn miếng bánh gai làng Giá lại thầm nhớ đến cái duyên dáng mặn mà của người con gái trong câu ca:

Bánh gai làng Giá thơm ngon
Con gái làng Giá tươi giòn sắc xuân
Giã lá, xay bột chuyên cần
Khéo tay gói bánh, người ăn tìm về...

Là một vùng quê nằm bên sông Đáy thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, làng Giá có nghề làm bánh gai nổi tiếng xưa nay. Bánh gai làng Giá được người sành ăn đánh giá chất lượng ngang với bánh gai Hải Dương.

Lá gai là hương liệu chính làm nên mùi thơm của bánh. Xưa kia, người làm bánh phải dùng chày gỗ, cối đá để giã lá gai và giã gạo nếp thành bột. Trọng lượng lá gai khô, gạo nếp, đường phên, được dùng theo tỷ lệ cứ 1 kg gạo nếp xay thành bột, trộn với 3 lạng rưỡi lá gai xay thành bột và 7 lạng rưỡi đường phên.

Nhân bánh gai làm bằng đậu xanh xay hạt vỡ đôi. Đậu được ngâm và đãi sạch vỏ, đổ vào chõ hấp chín, rồi đổ ra cối giã nhỏ nhuyễn. Trong nhân còn có cơm dừa nạo nhỏ. Nếu làm loại bánh gai hảo hạng, nhân bánh còn có thêm cả mứt sen, mứt bí thái nhỏ, lạc rang và mỡ miếng (lấy ở phần mỡ gáy lợn) đem thái thành miếng nhỏ hạt lựu xào với đường kính.

Bột làm vỏ bánh, sau khi đưa qua máy lèn cho kết lại, được đem cán mỏng ra mặt mâm nhôm, rồi cắt thành từng mảng bột vuông đều nhau vừa bằng một chiếc bánh, và đặt nắm nhân vào giữa mảng bột vo lại bao kín lấy nhân. Tiếp theo đem lăn hai mặt của chiếc bánh lên lớp vừng rang đã xát vỏ được rắc trên mặt mâm cho hạt vừng bám dính vào bánh. Lăn vừng xong, bánh được đưa qua khâu gói.

Khi gói bánh dùng lá chuối khô cọ, rửa sạch, lau ráo nước để bánh để lâu không bị thiu.

Phải luộc bánh bằng củi để dễ điều chỉnh nhiệt độ sôi tăng hoặc giảm của nước luộc. Thời gian luộc khoảng 1 tiếng rưỡi đồng hồ thì chín một mẻ bánh. Bánh chín rền là bánh bóc không bị dính lá và khi ăn không dính răng.

Canh rau sắn cá trê


Đó là món ăn độc đáo và rất phổ biến ở Thạch Thất, Hà Tây - quê hương của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Tuy được chế biến từ hai thứ nguyên liệu giản dị là rau sắn và cá trê, nhưng sự hòa quyện tuyệt vời giữa các mùi vị rất đặc trưng đã tạo nên nét đặc sắc cho món canh dân dã này.


Hằng năm cứ vào độ lúa ngoài đồng chín vàng, mùi hương nếp ngào ngạt trong gió, những cơn mưa đầu hạ bắt đầu nặng hạt, sấm chớp rạch ngang dọc trên bầu trời đen sịt, là trẻ con, người lớn í ới gọi nhau đi bắt cá. Những con cá trê vàng ươm đánh đuôi loách choách trong gốc lúa theo nước tràn bờ trở thành mồi ngon cho những tay săn cá vùng quê lúa. Cá bắt về nuôi trong vại sành, sau một ngày thì cho vào nước trộn tro bếp để hết lớp nhớt và khử mùi tanh. Sau khi bỏ ruột, bóc hoa khế trên đầu, đem cá cắt thành lát, ướp vài hạt muối.


Riêng sau sắn phải dùng thứ bánh tẻ, ngọn to và chỉ bẻ độ nửa gang tay. Đem rau rửa sạch, vò qua cho hết nhựa rồi luộc sơ và ngâm chua chừng hai ngày. Lúc nấu, vớt rau ra rửa lại cho kỹ, vắt khô, bỏ vào nấu cùng cá trê. Khi nồi canh đã sôi, phải để lửa nhỏ om cho cá nhừ ra và chất ngọt của cá ngấm dần vào rau. Dù từng nếm bao thứ sơn hào hải vị thì bạn vẫn bị quyến rũ một vị hương đặc biệt được tạo nên bởi vị ngọt thơm của những khúc cá trê béo ngậy quyện với vị bùi bùi nồng ấm của rau sắn. Hương vị đồng quê của niêu cơm gạo mới và món canh rau sắn cá trê nấu trong nồi đất chợt gợi trong ta những ký ức tuổi thơ xa vời...
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Ẩm thực Phú thọ

Bưởi Đoan Hùng

Có một mối liên hệ ràng buộc nào đó mà cả ba miền Bắc - Trung - Nam của nước ta đều có giống bưởi ngon. Bưởi Phúc Trạch đặc trưng cho miền Trung nắng gió, bưởi Năm Roi chọn cho mình vùng đất Nam Bộ màu mỡ để sinh sôi. Bưởi Đoan Hùng (thuộc huyện Đoan Hùng) - giống bưởi chắt lọc tinh chất từ sỏi đá trung du để ngon, ngọt đến lạ kỳ.

Bưởi Đoan Hùng xưa còn gọi là “bưởi Phủ Đoan”, vẫn được biết đến bởi những đặc điểm tép nhỏ, quả nhỏ, vỏ héo, mềm, mọng nước, ngọt và mát. Ngày nay, đến Đoan Hùng bạn sẽ được biết đến một số giống bưởi như bưởi Bằng Luân, quả to, dáng đẹp, vỏ vàng xanh. Bưởi Pôlênô (lai Mỹ) quả to, dáng thô, tôm nát, vị chua, không dóc vỏ. Bưởi Lã Hoàng tròn dẹt, hình bánh xe ăn mát ngon.... Và cuối cùng là bưởi Sửu, quả vừa, xinh xắn, vỏ vàng rộm, da hơi nhăn, dáng vẻ trông khiêm tốn hơn cả. Nhưng đây mới là loại bưởi quý hiếm nhất, người sành ăn sẽ chọn bưởi Sửu.

Có lẽ làm nên cái hồn cho bưởi Đoan Hùng là hương bưởi, cái mùi thơm ngan ngát ấy thực khó diễn tả. Tết đến, xuân về trên bàn thờ tổ tiên mà có trái bưởi Đoan Hùng thì hương vị đặc biệt ấy sẽ làm cho không khí gia đình thêm ấm cúng. Bạn đừng quên chọn cho mình được một trái bưởi làng Chí, hay bưởi Sửu vào mùa hè để thưởng thức vị ngọt lịm, tan nơi đầu lưỡi và thấm cái mát đến tận ruột gan, da thịt.

Bưởi đang làm giàu cho Đoan Hùng, mỗi trái bưởi gửi đến mọi miền đất nước là gửi gắm cái tâm thanh khiết của người trồng bưởi. Có thế bưởi Đoan Hùng mới mang vị đậm đà, bình dị đến vậy.

Hồng Hạc


Loại quả được coi như sản vật quí hiếm của vùng đất Tổ này được người xưa xếp đứng đầu trong hàng ngũ hoa quả quý dùng để tiến vua. Hồng Hạc là niềm tự hào của người Đất Tổ. Đến nay, nhiều vườn hồng Hạc còn có những cây to cả một người ôm, có cây ngót trăm tuổi. Hồng Hạc quả to, không hạt, mình vuông, tròn bằng, cát mịn, giòn ngọt, càng ăn càng thèm chứ không hăng chát, nhão thịt như hồng nước, hồng trâu.


Hồng Hạc mới hái phải được ngâm nước giếng đá ở Tiên Cát, Việt Trì mới đạt độ ngọt và giòn đặc biệt. Ngâm trong vại sành hay trong chum đủ ba ngày ba đêm mới vớt ra, khi ấy hồng sẽ tươi vàng, giòn mát, cắn cả vỏ vẫn thơm lựng chất đường.


Hồng Hạc mộc mạc, chân quê, thuần khiết. Nâng trái hồng trên tay, lựa lưỡi dao sắc, gọt lớp vỏ vàng màu nắng nhạt, bổ ra đã thấy thơm lựng, vị ngọt dịu dàng, đài các ngất ngây duyên trời, duyên đất. Cái mát, cái giòn, cái ngọt cứ ngập ngừng, quyến luyến khiến người thưởng thức không nỡ nuốt nhanh. Hồng Hạc bày trên mâm cỗ trung thu, thưởng ngoạn dưới trăng thu thi vị thanh tao, càng khó có thứ quả nào sánh kịp.

Các món cá



Cá Lăng chỉ sống ở sông có dòng chảy, độ sâu và mặt nước rộng. Nó sống ở đáy nước, ăn động vật. Chỉ khi đã lớn mới trồi lên mặt nước, bởi vậy ngư dân “hớt xẻo” thường bắt được cá Lăng to từ vài cân đến vài chục cân. Là cá ngon nhất trong nhóm cá da trơn.




Cá Anh Vũ
Tại ngã ba sông Việt Trì có cá Anh Vũ quý hiếm xếp vào loại hàng cá nước ngọt. Sống ở đáy sông, ăn rêu đá, suốt mùa xuân hè ẩn trong hang, chỉ sang thu đông mới ra ngoài. Vì thế chỉ hôm nào rét đậm sương mù mới đánh được cá Anh Vũ. Thời phong kiến, loài cá này dùng để tiến vua.



Quãng sông Thao thuộc huyện Thanh Ba có giống cá Cháy, loại cá có hai buồng trứng to và rất ngon. Chính vì vậy khi bắt được cá Cháy người ta sẽ mổ ra và chỉ lấy hai buồng trứng. Những người sành ăn sẽ không ngần ngại chọn cá Cháy trong vô số những loại cá khác.



Những năm gần đây, tại thành phố Việt Trì đã xuất hiện một số nhà hàng chế biến, kinh doanh những loại cá này để phục vụ thực khách. Nổi tiếng và lâu năm nhất có lẽ phải kể đến “Quán cá Bờ Sông”, sau này có Quán cá Bạch Hạc và một số nhà hàng ăn uống khác.

Nước chè xanh



Đất của nước chè mà khi viết về ẩm thực lại không nhắc đến chè thì quả là thiếu sót với đất và người nơi này. Ấy vậy mà trong hàng chục sản phẩm từ chè, người Phú Thọ lại chọn cho mình một thứ dân dã lắm nhưng cũng đậm đà lắm để thết đãi bạn bè gần xa: Nước chè xanh.



Nghe qua về món nước tươi, mát, bổ này chắc ai cũng nghĩ chế biến nó thật đơn giản. Chọn hái khoảng chục lá chè, rửa sạch, cho vào hãm với nước rồi chắt ra uống. Nói thế cũng đúng nhưng chưa đủ để nước chè xanh (chè tươi) trở thành thú thưởng ngoạn bình dân mà tao nhã.



Nhìn cách uống chè xanh của người dân nơi thôn dã mới thấy hết được nét truyền thống của thú ẩm thực này. Từ cây chè để hái lá uống tươi cũng phải chọn lựa. Để có nước chè xanh màu đẹp, mùi thơm, vị ngọt chát, phải chọn những cây chè mọc tự nhiên trong rừng già, chen chúc giữa muôn loài cây cối khác. Trông cây chè tựa như một cây cổ thụ, gốc xù xì to ngang với các cột nhà, cành lá vươn cao, muốn hái phải leo lên mới với tới. Ưa chát thì chọn cây giãi nắng, ưa ngọt thì chọn cây ớm bóng. Lá chè tốt nhất là những lá chớm vàng, còn trụ bám vững trên cây.



Nước để hãm chè tươi cũng phải chọn nguồn thích hợp. Hầu như mỗi làng chỉ có một nơi có nguồn nước thích hợp với việc này thôi, chỗ này được gọi là “giếng quê”. Người biết nấu chè xanh phải dùng ấm đất nung. Khi nấu người ta sẽ nút cả vòi ấm lại để giữ hương thơm và đề phòng quá lửa sôi trào mất nước cốt.



Nhâm nhi một bát nước chè xanh để bàn chuyện nhân tình thế thái, để đỡ khát giữa buổi lao động mệt nhọc, để ấm lòng mỗi khi nhớ về quê hương bản quán, để cái dư vị ngọt ngào ấy theo ta mãi về sau... Đến bất cứ nơi nào trên đất Phú Thọ, nếu được mời một bát nước chè xanh, bạn đừng nỡ từ chối. Đó là tấm lòng hiếu khách họ dành cho bạn đấy!

Rau sắn:



Nói đến rau sắn có thể quý khách nghe nhầm là đặc sản “rau sắng” chùa Hương – Hà Tây. Quả thật rau sắn không quý hiếm mà được trồng bạt ngàn trên các vùng đồi trung du Phú Thọ. Là người con Đất Tổ, hình như ai cũng đã được thưởng thức các món sắn luộc, sắn nấu canh hến, các loại bánh sắn… nhưng không thể nào quên hương vị chua chua, bùi bùi của rau sắn muối dưa nấu cá, nấu với lạc nhân giã nhỏ. Những búp sắn non trồng ở bờ dậu được các bà, các chị hái về, bỏ bớt những cọng lá già đem muối dưa 2,3 ngày. Khi rau ngả màu vàng và có vị chua thì đem nấu. Cách nấu ngon nhất là nấu với tép sông hoặc cá mè hoa trắng. Nếu như đã từng được nếm món ăn dân dã này thì thật khó quên dư vị của nó!

Bánh Tai




Mấy năm nay, món bánh Tai thị xã Phú Thọ đã “lên ngôi”. Tại các lễ cưới, tiệc tùng dùng thay cho cơm tẻ, vừa tiện dùng, vừa lịch sự và hấp dẫn. Bánh Tai đã trở thành quà quý lạ về tận Hà Thành và một vài tỉnh bạn. Thứ quà trong ngày nhưng phải biết giữ gìn công phu.



Bán Tai Phú Thọ hôm nay có từ thời xa xưa của làng Phú Thọ gọi là bánh Hòn. Bánh Tai có hình thù giống cái tai, là thứ bánh gạo tẻ, nhân thịt lợn, dễ làm bởi quy trình không mấy phức tạp, dụng cụ không cầu kỳ nhưng không phải ai cũng làm nổi cái bánh Tai.



Xưa cũng như nay, khâu chọn gạo làm bánh vẫn là khâu quyết định chất lượng bánh, gạo phải ngon và có độ dẻo. Gạo làm bánh đãi sạch, ngâm nước lã từ hai giờ đến nửa ngày. Sau đó đem giã cối đá và làm thành quả bột. Khâu này đòi hỏi bàn tay khoẻ, nắm cho bột kết dính thật chắc. Sau đó quả bột lại được cho vào cối đá giã thật nhuyễn và đánh cho thật tơi. Lấy tay nhào bột cho tới khi vừa độ dẻo rồi bắt đầu nặn bánh bằng tay (không có khuôn). Những người làm hàng thạo thường nặn 10 cái đều nhau như đúc khuôn. Bánh nặn dài như cái tai, có nhân thịt lợn ở giữa. Bánh nặn xong, xếp vào chõ xôi hấp cách thuỷ. Chỉ 30 phút đến một tiếng sau bạn đã có một mẻ bánh Tai như ý. Nhưng lưu ý, điều tối kỵ trong làm bánh Tai là không được để bột vón cục (còn gọi là mắt cá).



Bánh Tai ngon nhất là ăn tại chỗ, kiểu dân dã. Cái bánh Tai vừa đưa ra còn thoảng hơi nóng, lót tay bằng mảnh lá chuối hoặc cầm tay không từ từ ăn ngay mới thấm hết mùi vị của bánh, đó là sự hoà quyện giữa: dẻo, giòn, bùi, ngọt, béo ngậy và thơm.

Thịt chó Việt Trì




Cũng vẫn là bảy món đặc trưng như mọi nơi nhưng thịt chó Việt Trì lại có sức hấp dẫn rất riêng bởi hương vị đậm đà và khả năng chế biến đạt đến độ chuyên nghiệp. Chọn nguyên liệu được coi là khâu mấu chốt quyết định, không sử dụng những loại chó nuôi tăng trọng là đặc điểm quan trọng của thịt chó Việt Trì, đặc biệt chó nuôi gầm nhà sàn của các vùng dân tộc miền núi đã được trưng dụng và được thực khách sành ăn rất ưa chuộng, kế đến là khâu chế biến được coi là bí quyết gia truyền... Với cảm nhận của người thưởng thức, có thể đưa ra một vài nhận xét như sau: Thịt mềm, thơm, không sẫm màu như một số vùng khác. Đặc biệt những món như dồi, món nướng không bị khô. Món chân chó tẩm hấp lại mang đến một dư vị đậm đà khó tả với màu vàng ngậy và độ mềm, thơm vừa tới. Món xương hầm đu đủ mang đến một cảm nhận khác về sản vật vùng trung du miền núi...



Người Việt Trì tự hào về thú ẩm thực rất dân dã của đất mình và chắc chắn đến Việt Trì một lần bạn sẽ được những tấm lòng hiếu khách khoản đãi món ngon này. Phố Đoàn Kết là trung tâm của thịt chó Việt Trì với gần 20 cửa hàng lớn nhỏ. Những cửa hàng này đều đã có trên dưới chục năm nay nhưng vẫn mang vẻ bình dị, dân dã vốn có bởi theo những chủ cửa hàng ở đây thì phòng ốc bóng nhoáng, bàn ghế sang trọng sẽ không còn là thịt chó Việt Trì.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Ẩm thực Hưng Yên

Giò bì Hưng Yên

Ngày trước, mỗi lần về quê thăm gia đình, tôi phải mất 5-6 tiếng đồng hồ đi ca nô, bởi tôi say xe ô tô. Mỗi lần canô chuẩn bị cập bến, tôi lại thấy ngoại tôi cười rất hiền đứng trên bờ, miệng giục bác dâu tôi lên dắt tôi đi qua cái cầu gỗ bập bềnh bắc từ tàu xuống. Khi tôi vừa đặt chân lên mảnh đất quê hương, ngoại tôi giúi ngay vào tay tôi những gói lá nhỏ nhỏ xinh xinh bằng hai ngón tay chập lại. Ngày ấy, nào tôi có biết gì về nghệ thuật ăn uống. Bây giờ khi đã lớn lên, được đi nhiều nơi, và ngoại tôi không còn nữa, tôi mới nhận ra rằng những chiếc giò bì xinh xắn ấy chính là một trong những đặc sản của quê hương tôi: Phố Xuôi, Hưng Yên. Giò bì còn có nhiều tên gọi khác nhau, bác tôi gọi nó là "giò sậm sật", "giò nhấm nhẩy" bởi nó ăn rất giòn, thích hợp khi uống rượu. Còn người dân quê tôi đa phần gọi nó là "giò thúc bì" hay "giò bì". Nghe tên giò, thấy rõ nguyên liệu làm giò chính là bì. Bì lợn mua về làm thật sạch, luộc chín rồi đem thái con chì. Thịt nạc mông rửa sạch, dùng chày giã nhuyễn. Trộn đều thịt đã giã với bì thái con chì và nước mắm rồi đem gói thành từng chiếc giò bé bằng hai ngón tay. Cuối cùng, xâu lạt mười chiếc một và đem vào luộc chín. Ðể có được những chiếc giò ngon thì phải làm bì thật trắng, sạch, thịt phải tinh nạc, nước mắm loại thật ngon và nhất là mọi thứ đều phải được làm bằng tay (giã, gói). Những chiếc giò nóng hôi hổi mới luộc xong rất thơm, ăn ngay thì rất mềm. Còn để nguội, giò "đanh" lại, thơm mùi lá, lúc bóc ra có màu hơi hồng của thịt, màu trắng của bì.

Bây giờ, theo đã phát triển của máy móc công nghiệp, chiếc giò bì quê tôi không được giã bằng tay như xưa mà người ta xay nhuyễn thịt thành giò sống nhưng nó vẫn giữ được độ giòn thơm, đậm đà, không tạp pha lẫn lộn. Và tôi thi thoảng về thăm quê, cũng vẫn không quên mang lên theo những chiếc giò bì làm quà cho bạn bè với niềm tự hào: Hưng Yên không chỉ có đặc sản nhãn TTTg mà còn có rất nhiều món ăn ngon khác.

(VHNT ăn uống)

Tương Bần

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Câu ca dao xưa đi vào lòng người gợi nhớ tới đồng quê, biển lúa. Dân ta có câu “tương cà gia bản”, chỉ cần một ao rau muống, một chum tương với một vại cà thì yên chí cả năm không phải lo đến việc ăn uống thường nhật.
Tương ngon phải kể đến tương Bần, tương Phố Hiến. Tương ở đây sánh vàng, thơm ngậy, hạt đỗ được xay nhỏ, nước tương màu cánh gián. Nó được chế biến bằng gạo nếp cái với đỗ tương ta, hạt nhỏ chứa nhiều đạm. Rang đỗ là một nghệ thuật của tài củi lửa. Đỗ phải rang với cát, tay đảo đều, lửa đượm, hạt đỗ chín đều lên màu vàng bốc mùi thơm. Ủ mốc người ta dùng lá khoai, lá sen. Khi mốc lên hoa hòe, cầm nắm mốc xốp nhẹ là được.
Ngả tương là một ngày trọng đại. Chum tương đã được ngâm nước vài lần, cọ rửa sạch sẽ. Nước ngâm đỗ phải là nước giếng đất hoặc giếng xây đá tổ ong, không dùng nước máy. Nước ngâm đỗ có váng bọt vớt bỏ ra ngoài. Vào một buổi sáng mát lành, liều lượng đã thuộc, thì ngả tương cho đến khi mặt trời lên cao nắng nóng thì nghỉ. Sau đó cứ sáng ra người ta lấy gậy khuấy đều rồi đậy bằng chậu sành, tránh nắng chứ không tránh nóng. Tương ngấu càng để lâu càng ngon, người ta san ra hũ, ra chai ăn dần.

Người ta gọi tương ngọt không phải ngọt như nước đường, mà vì có độ đạm cao, chế biến tinh khiết, nguyên liệu chọn lọc, để lâu không hỏng. Nhìn mâm cơm có bát tương gừng, người ta nghĩ đến đĩa thịt luộc, hoặc bát thịt bò tái với cút rượu Trương Xá. Cái béo ngậy của thịt, đậm ngọt của tương, thơm cay của gừng thêm nhánh rau thơm, mấy thứ ấy bổ sung cho nhau bữa ăn có thể nói là nhớ đời.

Tương là món ăn mang ý nghĩa cộng đồng. Trong mâm cơm mọi thứ rau dưa, thịt cá đều chấm vào đó, mới nổi hương vị. Nó đằm thắm mà khiêm tốn, không xốc nổi, sắc sảo như các thứ nước mắm miền biển, được coi là gia bản, xứng đáng được người Hưng Yên ưa chuộng.

Nhãn Phố Hiến

Nhãn là quà tặng của trời cho đất Phố Hiến. Hưng Yên nổi danh khắp nước cũng nhờ có nhãn. Kỳ lạ thay, cũng là đất bãi sông Hồng mà chỉ có nhãn Phố Hiến mới được coi là vua của loài nhãn. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả: “mỗi lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước thánh trời cho”. Những yếu tố vi lượng nào đã làm cho nhãn có hương vị đặc biệt khác hẳn cây nhãn ở những vùng đất khác? Chưa ai khám phá ra điều bí ẩn đó nhưng mời bạn thử đến Phố Hiến vào mùa nhãn nếm thử. Cùi nhãn trong như hổ phách, hạt nhỏ, nước ngọt mát và thơm lạ lùng. Ấy là thứ nhãn nước, loại nhãn đại trà của xứ nhãn, chứ ở đây còn có nhãn TTTg, nhãn đường phèn mới thực quý.


Nhãn được trồng nhiều ở ven đê từ Đằng Châu, Xích Đằng đến cửa sông Luộc. Rễ nhãn bám chắc vào đất. Trồng mấy cây nhãn quanh nhà, bóng xum xuê tỏa mát và khi có gió bão nó cản gió rất khoẻ. Gỗ nhãn rắn chắc, đỏ hồng, đóng đồ gia dụng bền chắc. Than đốt rất đượm, sắc thuốc phải dùng đến nó vừa nhàn lại vừa chóng, có nước cốt, chất thuốc không lạc vị. Đó là thứ cây hiến cho đời tất cả cái gì mình có. Mùa nhãn ra hoa đúng vào mùa mưa xuân, có ngày giá lạnh. Nếu trời đất âm u kéo dài, hoa rụng đầy sân. Thảng hoặc được vài ngày trời trong, nắng ấm thì cả bầu trời dậy lên tiếng ong, hương thơm tỏa nhẹ ngây ngất lòng người.

Mùa quả chín vào tháng sáu âm lịch. Ca dao có câu “Tháng sáu buôn nhãn bán trăm”. Một túm nhãn khoảng trăm quả, kèm thêm vài cành lá tươi đặt trên ban thờ, thắp nén hương khấn ông bà ông vải về chứng giám cũng là một nét đẹp văn hoá. Nhãn thóc chỉ dùng cho trẻ ăn chơi, nhãn nước sấy khô làm long nhãn, còn nhãn TTTg quả to, da láng, cùi dày, dòn thơm để tiếp khách, làm quà biếu. Ăn một quả nhãn đường phèn, nước ngọt thấm từ đầu lưỡi đến chân răng rồi lan khắp cơ thể. Tinh hoa của đất trời thu góp lại hiến dâng cho người trồng nó. Quả nhãn phơi khô cả cành, ngày Tết thêm mấy cành lá xanh sẽ là niềm vui bất ngờ cho người chơi sành điệu. Long nhãn là vị thuốc bổ âm, ngâm với rượu, mỗi ngày uống một vài chén, ăn sẽ ngon hơn, ngủ sâu hơn, tính tình điềm đạm hơn.


Làm long nhãn
Được mùa nhãn, cả tỉnh thu ước từ 150 đến 200 tỷ đồng. Vùng thị xã và phụ cận có nhiều gia đình lập trang trại, trồng toàn nhãn ghép và nhãn chiết giống quả to ngon. Một cây nhãn trúng vụ cho chủ nó vài ba triệu đồng. Nhiều nhà dùng nhãn làm của hồi môn hoặc lương hưu dưỡng già. Dưới vườn nhãn người ta nuôi ong mật. Đây cũng là loại thuốc quý.

Một vùng đất bạt ngàn nhãn, ong, thiên nhiên đã ưu đãi Phố Hiến thứ làm rung động trái tim người tha hương khi nghĩ tới quê mình trong chiều sâu văn hóa.

Khách về Hưng Yên, thường đến thăm cây nhãn tiến (thường quen gọi là nhãn Tổ), có tuổi mấy trăm năm ở trước cửa chùa Hiến.

Chả gà Tiểu Quan

Ở thôn Tiểu Quan xã Phùng Hưng - Khoái Châu có món chả gà, nổi tiếng một vùng.

Cách làm chả rất công phu. Khi thịt con gà, phải chọn chỗ thịt nạc, bỏ hết gân, xương rồi thái nhỏ cho vào cối giã. Khi giã gần được thì trộn với lòng đỏ trứng gà, nước mắm ngon, hạt tiêu, gừng, mỡ lợn thái hạt lựu rồi giã tiếp. Giã thịt cũng phải có nghệ thuật, nhát nào chắc nhát ấy không để thịt bắn ra ngoài. Giã xong lấy miếng mo cau phết thịt lên phên để nướng. Việc phết thịt lên phên cũng không phải dễ dàng, nếu phết quá mỏng thịt sẽ chảy sệ và rơi xuống lò, nếu dày quá thịt sẽ không chín đều.

Nướng chả phải nướng bằng than hoa, than củi, nếu là than nhãn thì tốt. Nếu kiếm được quả thông khô cho vào than thì vừa đượm vừa thơm. Ăn chả gà, đúng hơn là thưởng thức một món ăn lạ độc đáo, không thể ăn bỗ bã như các thứ khác. Khi ăn ta nhấm nháp từ từ để các giác quan cảm nhận được vị ngọt béo, thơm cay của chả.

Ăn chả gà thích nhất là vào dịp Tết, trời se lạnh, có điều kiện ngồi lai rai. Ngoài trời mưa phùn mờ sương, bạn hữu quây quần nâng chén rượu Trương Xá ăn với chả gà, chiều xuân vào tối lúc nào không hay…

Bánh dày làng Gàu


Từ bao đời nay, bánh dày làng Gàu (xã Cửu Cao - Văn Giang) đã được xếp ngang với rượu Trương Xá, tương Bần, góp phần tô đậm thêm bản sắc văn hóa ẩm thực của đất Hưng Yên. Từ cây lúa hạt gạo, người làng Gàu đã sáng tạo ra loại bánh dày có nhân ngon nổi tiếng trên cơ sở của chiếc bánh dày thời Lang Liêu đời Hùng Vương.

Bánh được làm từ gạo nếp cái hoa vàng, được vo kỹ, ngâm với nước sạch và đồ chín. Nhân bánh là đỗ xanh đãi sạch vỏ, thổi chín, giã nhuyễn, nắm thành từng nắm nhỏ. Nếu làm bánh mặn thì dùng nhân thịt nạc, làm bánh ngọt, trộn đỗ xanh với đường cát.

Cái đặc sắc của bánh dày làng Gàu là gạo nếp phải được gieo trồng trên đồng ruộng làng Gàu, ngâm nước giếng làng Gàu, và được chính tay khéo léo của các cô gái làng Gàu nặn mới thành tấm bánh xinh xắn, thơm ngon. Sắc thái văn hoá bản địa ở đây không hề trộn lẫn. Nhìn những chồng bánh dày trắng trẻo xếp đầy trong thúng, dưới nền lá chuối xanh, người ta liên tưởng đến sự hoá thân màu nhiệm của hạt gạo hiến dâng cho đời một món ăn của hương đồng gió nội.

Bánh dày làng Gàu được khách xa gần đến đặt mua với số lượng hàng tạ phục vụ cho các cửa hàng ăn uống ở thủ đô, hội nghị, tiệc cưới, đã tạo thêm việc làm cho hàng ngàn lao động. Tết đến xuân về, bánh dày được đặt trang trọng trên bàn thờ nghi ngút khói hương cũng là một nét đẹp văn hoá của quê ta…

Ếch om Phượng Tường

Đi thì nhớ vợ cùng con
Về nhà lại nhớ ếch om Phượng Tường


Làng Phượng Tường thuộc huyện Tiên Lữ. Câu ca dao trên lưu truyền từ lâu đời chứng tỏ nó là món ăn tuy dân dã nhưng đã được nâng lên tới mức nghệ thuật trong khoa ẩm thực.

Trước hết là khâu chọn ếch. Chỉ có ếch từ tháng 9, tháng 10 trở đi con nào con nấy đều béo mẫm do tích nhiều mỡ, chui vào hang nghỉ đông thì thịt mới thơm ngon. Ếch tháng 3 khi chúng đã trút hết sức lực cho việc sinh sản thì gầy. Có được ếch ngon thì việc “làm lông” cũng phải công phu. Phải dùng lá tre, nước vôi, muối xát kỹ và rửa bằng nước ấm cho sạch hết nhớt.

Ếch được chế biến thành hai món. Nếu làm món ếch mọc thì phải lột sạch da cho thật khéo, từ miệng xuống chân, nguyên vẹn, không để cho da bị thủng rách. Thịt ếch đem băm nhỏ lẫn với vỏ quít khô, mộc nhĩ, nấm hương, thịt ba chỉ, trứng gà thêm gia vị tiêu, ớt, bột ngọt rồi cho vào cối giã mịn như giã giò. Sau đó nhồi lại vào da thành hình con ếch. Phải nhớ nhồi nom như ếch đói để khi chín nở ra là vừa.

Đặt ếch lên đĩa để ngồi như ếch còn sống, ta cho vào nồi hấp. Lúc sắp bắc ra lấy trứng gà hoặc trứng vịt đánh nhuyễn dội lên mình ếch cho chảy xuống thành hình hoa mướp. Khi ăn dùng dao cắt ra từng miếng chấm với nước mắm hạt tiêu. Ai đã một lần thưởng thức tưởng không thể quên hương vị của thứ đặc sản này.

Còn món ếch om thì khi "làm lông" sạch, mổ bụng bỏ hết ruột gan, chỉ bóc lấy lại mỡ áo tơi. Đặt ếch lên thớt dùng gọng dao dần kỹ cho nhuyễn xương, nhưng khi cầm lên vẫn phải nguyên là con ếch. Muốn thế gọng dao phải tròn, dần thật khéo, sau đó đem ướp gia vị gồm mẻ, vỏ quýt khô, mộc nhĩ, hạt tiêu, mắm tép, nước mỡ khoảng nửa giờ cho ngấm. Đoạn lấy lạt bó lại cho vào nồi nấu với măng, thịt ba chỉ. Nhớ đun nhỏ lửa cho sôi kỹ rồi bắc xuống om cạnh bếp, sao cho khi chín ếch và nước chỉ vừa một bát.

Khi múc ra ếch phải nhừ, nước om phải có màu vàng đậm sóng sánh như mật ong, tỏa mùi thơm quyến rũ. Món này ăn với rau diếp, xà lách, thêm chén rượu đưa cay thì cả chủ lẫn khách đều quên hết mọi sự trên đời.

Bún thang Thế Kỷ


Những người Hưng Yên xa xứ mỗi khi về thăm quê hương thường đến Gốc Sanh ăn một bát bún thang của nhà hàng Thế Kỷ.

Cửa hàng của bà vốn không có biển hiệu. Khách ăn quen gọi cửa hàng bằng tên của bà và cũng muốn món ăn này tồn tại ít ra cũng một trăm năm. Nhà hàng ngày trước rộng rãi thoáng mát, trước cửa có cây to rủ bóng, treo mành. Quầy thức ăn căng lưới, từng bát lươn, gà thái chỉ tẩm nghệ sào vàng ươm. Rồi giò lụa, trứng tráng cũng đều thái chỉ đầy ú ụ trong đĩa, trong bát. Khách đến bà dắp bón, xúc nhân nhanh thoăn thoát, và loáng cái, bát bún thang đã là một tác phẩm nghệ thuật đầy màu sắc: cái trắng của bún Vân Tiêu làm nền, cái vàng của nhân lươn, nhân gà được tôn lên bởi đám rau răm xanh rờn. Thêm thìa mắm tôm và muôi nước dùng bốc khói, bát bún như ân cần mời mọc, nhìn đã ứa nước miếng.

Bún thang làm không khó, nhưng làm được ngon không phải dễ. Thời trước không có mì chính nhưng nước dùng được hầm với xương lợn, xương gà, cua đồng, tôm he và sá sùng. Váng nước được hớt đi, còn lại là lượng nước trong béo ngậy. Bí quyết của nhà hàng là mọi thứ nguyên liệu được chế biến đủ độ chín tới, liều lượng cân đối không non tay cũng không già lửa, làm mãi thành quen, nếu không bát bún trở thành vô duyên không sao chữa được.

Thang lươn ngon hơn thang gà, làm công phu hơn và cũng đích thực là bún thang hơn. Lươn thui rồi mới mổ, không mất máu, bao giờ cũng ngon.

Bún thang là món ăn nhiều đạm phù hợp với tuổi tráng niên đang sung sức. Nó cũng là một nỗi nhớ của Hưng Yên.

Sen

Đặc sản của Hưng Yên là nhãn và sen. Nếu như nhãn được tôn vinh là vương giả chi quả thì sen cũng là vương hậu chi hoa. Dọc ven đê sông Hồng từ Văn Giang đến cửa sông Luộc xuống đến tận La Tiến - Phù Cừ, đầm sen bát ngát chạy dài, hương sen lan tỏa khắp không gian. Cổ nhân ta coi uống trà ướp hương sen là thú vui tao nhã. Các cụ còn cầu kỳ cho dong thuyền hớt từng giọt sương đọng trên lá sen đem về pha trà sớm mai.

Sen không chỉ là một loài hoa đẹp mà tất cả các bộ phận của cây sen đều là thuốc chữa bệnh. Hạt sen tức liên nhục chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ. Tâm sen tức liên tâm có vị đắng chữa tim hồi hộp, an thần. Gương sen có tên gọi là liên phòng phơi khô sắc uống có tác dụng cầm máu trong đại tiểu tiện hay băng huyết. Liên tu tức tua nhị của hoa sen phơi khô sắc uống chữa băng huyết, thổ huyết, di mộng tinh. Ngay lá sen mà y học gọi là hà diệp dùng tươi sắc uống chữa nôn ra máu, chảy máu cam. Còn ngó sen tức liên ngẫu, mọc trong bùn dùng làm thức ăn giải nhiệt, làm thuốc cầm máu. Ngó sen nấu nước tắm sẽ làm cho da thịt mịn màng, cơ thể sảng khoái. Hạt gạo trong hoa sen dùng để ướp chè.

Có người muốn chọn món quà tặng bạn bè xa xứ đã phải bỏ ra hơn một triệu đồng để có một cân chè ướp hương sen thiên nhiên. Với hạt sen, đỗ xanh, đường cát, bột gạo và một vài gia vị khác người nội trợ có thể tạo nên những bát chè sen long nhãn thơm hương đồng nội, ngọt vị phù sa. Dịp tết Trung thu những cô gái Hưng Yên thường làm ít mứt sen bày bán trong cửa hàng với ngụ ý kén chồng.

Quà mứt sen đi với bánh đậu xanh Rồng vàng, tinh hoa quả của trời đất tụ lại tưởng không còn gì thanh lịch cho bằng.

VỊT HẦM TƯƠNG BẦN

VẬT LIỆU:

1. Chuẩn bị 0,5 lít tương Bắc - tương Bần. Lưu ý khi sử dụng tương Bần, tùy thương hiệu, chất lượng tương sẽ khác nhau rất nhiều. Gia vị.

2. ½ con vịt khoảng 1 kg. Chà xát trong ngoài vịt 30 cc rượu trắng trộn với 1 muỗng súp gừng giã nhỏ, để qua nửa giờ rửa sạch lại với nước ấm. Nếu mua vịt làm sẵn không có mùi hôi lông thì không cần làm khâu này. Tùy ý cắt bỏ phao câu vịt hay không.

3. Chế biến cách 1: Pha hỗn hợp 6 muỗng súp tương + 4 muỗng súp đường trong một cái nồi, bắc lên bếp, nhỏ lửa, khuấy tan đường, nếm lại, tùy tương mặn ít nhiều, gia giảm ít đường hay tương cho vị tương dịu xuống nhưng vẫn phải đậm đà + 1 muỗng súp hành tím và gừng cắt lát. Tắt bếp.

- 150 gr hải sâm đã sơ chế mềm (chọn loại bên ngoài có lớp vỏ sần đen sẽ ngon hơn là loại màu trắng đục) hoặc hải sâm đóng hộp, tùy ý cắt miếng vừa ăn. 10 tai nấm đông cô loại vừa, ngâm nước cho nở mềm, cắt bỏ cuống rễ.

- Không chặt vịt, tẩm gia vị đều trong ngoài vịt với hải sâm, nấm. Để qua ít nhất 3 giờ trong tủ lạnh, lấy riêng vịt ra chiên vàng với chảo nhiều dầu, vớt ra để thật ráo dầu.

- Gắp hải sâm, nấm ra để riêng. Châm thêm nước sôi vừa đủ vào phần nước gia vị còn lại trong nồi ướp vịt, thả vịt vào hầm nhỏ lửa, khi nước gần cạn múc ra 2/3 chén nước hầm vịt để riêng. Tiếp tục hầm cho đến khi vịt mềm, nước cạn hẳn, lấy ra để vịt nguội và ráo thịt, chặt vịt thành miếng vừa ăn, sắp lại vào dĩa bàn lớn cho đẹp mắt.

- Chuẩn bị: 100 gram cải ngọt rửa sạch cắt khúc.

- Hòa 1 muỗng súp bột năng vào chén nước hầm vịt đã để riêng.

- Phi thơm 2 muỗng súp dầu với 2 lát gừng băm, cho hải sâm, nấm, cải ngọt vào xào chín giòn, nêm lại rồi châm nước hầm vịt pha bột vào từ từ, đảo đều cho hỗn hợp xào vừa sệt lại, không cần phải dùng hết lượng nước bột. Trải đồ xào thật nóng lên mặt thịt, rắc thêm tiêu bột.

@ Tuỳ ý, không nhất thiết phải dùng hải sâm.

4. Chế biến cách 2: Chặt vịt thành miếng, ướp chung với hải sâm, nấm qua 3 giờ, xào cho săn lại, châm nước sôi vào sấp mặt thịt, nấu nhỏ lửa cho đến khi mềm, trong khi nấu thấy cạn cứ châm thêm nước sôi cho đến khi vịt mềm, nước vẫn còn sấp mặt thịt là vừa. Tùy ý nêm lại với tương nguyên chất, đường. Ăn kèm mì trụng, cải ngọt trụng chín giòn.

5. Vịt kho tương: Làm như cách 2 nhưng không có hải sâm và nấm, châm nước vào sấp mặt thịt, kho nhỏ lửa cho đến khi vịt mềm, nước gần như cạn hẳn.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Ẩm thực Hòa Bình

1. Lợn thui luộc – canh loóng:

Lợn nuôi thả, sau khi cắt lấy tiết, không đun nước sôi để cạo lông mà lấy đóm nứa, đóm tranh hoặc rơm thui vàng, thui đến đâu thì cạo lông đến đó. Sau đó rửa sạch trước khi mổ lấy phần nội tạng, không rửa lại nước, mà chỉ lấy lạt giang buộc treo lên để cho ráo máu. Thịt lợn làm như vậy sẽ để được lâu, không bị ôi thiu. Sau đó, thịt được pha ra cho vào nồi luộc trên bếp củi ở nhiệt độ vừa phải. Khi thịt vừa chín tới được đem ra thái mỏng bày trên lá chuối rừng tươi xanh. Thịt nóng quyện với lá chuối rừng tạo ra hương vị thơm ngon. Thịt luộc được chấm với muối rang và hạt dổi nướng giã nhỏ. Người ăn có được độ ngọt của thịt lợn, giòn của bì và mỡ, mùi thơm của lá chuối, hương vị của hạt dổi, đậm đà của muối rang. Mỗi khi ăn xong thì không ai có thể quên được.

Canh Loóng:

Đây là món canh được nấu từ nước luộc thịt với cây chuối rừng thái mỏng. Cây chuối rừng lấy về được bóc vỏngoài lấy nõn thái mỏng, nhỏ bóp với muối sau đó thả vào nước luộc thịt đun trên bếp củi khoảng 40 – 50 phút. Sau đó rắc vào một ít hạt dổi nướng giã nhỏ và lá lốt rừng thái nhỏ trước khi ăn.

2. Cá ốch đồ:

Cá được đánh bắt từ sông, suối đem về rửa sạch sau đó được ướp với măng được muối chua (măng muối càng lâu càng tốt) cùng với một số rau rừng. Cá, măng, rau rừng, muối, mắm, hạt dổi nướng được ướp trộn từ 20 – 30 phút cho ngấm. Sau đó được gói lại bằng lá chuối rừng hoặc lá đu đủ rồi đem đồ trên hông gỗ từ một đến hai đon củi là chín. Khi ăn, người ăn có được độ ngọt của cá, độ bùi của măng, mùi thơm của hạt dổi và các loại rau rừng.

3 Thịt lợn muối chua:

Thịt lợn nuôi thả ướp với men của lá rừng cùng với gạo rang giã nhỏ thời gian khoảng 60 phút. Sau đó lấy lá chuối rừng hơ lên trên lửa, lau sạch rồi lót vào đáy bồ (bồ làm bằng tre, nứa) trước khi đưa thịt vào bồ. Phần dưới của bồ (trên của lá chuối) được rải một lớp gạo rang nhỏ trộn với muối rang sau đó xếp thịt lên, cứ một lần xếp thịt lại rải một lần gạo rang với muối. Sau đó đậy kín nắp bồ bằng lá chuối và để bồ thịt muối ở quang bếp củi hoặc trên gác bếp đun củi. Thịt lợn muối được làm như thế có thể để được từ 7-15 năm. Món thịt lợn muối chua của người dân tộc Dao Hoà Bình là món không thể thiếu trong ngày lễ đặt tên hoặc ngày tế lễ gia tộc. Khi ăn thịt lợn chua vẫn giữ được màu sắc của thịt, ngậy của bì, độ chua của men rừng, độ mặn vừa phải của muối, độ thơm của gạo. Món ăn này thường được ăn với các loại lá rừng (lá trau, lá ổi, lá sung, lá đinh lăng…)


4. Măng chua nấu thịt gà:

Đây là món ăn của người dân tộc Mường không thể thiếu được trong nhưng ngày Hội xuống đồng, Hội mừng lúa mới. Gà nuôi thả có trọng lượng từ 0,8 – 1 kg sau khi bắt về không cắt tiết mà chỉ bóp chết. Đun nước làm sạch lông rồi mổ bỏ phần nội tạng, gà chặt ra thành miếng nhỏ, đem ướp với măng chua (măng muối càng lâu càng tốt) cùng với gia vị bóp ướp để từ 20 – 30 phút cho ngấm hương vị của măng và gia vị, sau đó cho vào nồi vần quanh bếp củi than khoảng 1-2 giờ. Khi thịt gà và măng đã chín nhừ rắc thêm một ít hạt dổi nướng giã nhỏ. Món ăn này khi ăn thịt gà, măng chua, nhạt dổi được quyện với nhau.

5. Rau rừng đồ:

Rau rừng đồ được ăn với bánh dày làm từ gạo và sắn. Rau rừng gồm rất nhiều loại như: Rau beo, rau tầm bóp, rau đốm, rau đu đủ, rau the hởi, hoa chuối, quả quạnh… rửa sạch đem đồ trên cuốp gỗ khoảng 30-40 phút. Khi ăn chấm với lòng cá trưng mẻ. Rau rừng đồ được quyện 4 vị đắng, chát, cay, nghọt, bùi. Đây là món rau sạch, ngoài ra còn có tác dụng chữa bệnh tức bụng, đầy hơi, hậu sản của người dân tộc Hoà Bình

6. Xôi đồ cuốp:
Được làm từ gạo nếp nương, khi đồ gạo được ngâm từ 4-5 tiếng sau đó để ráo nước cho vào cuốp gỗ đồ trên hông đồng đun trên bếp củi khoảng 60- phút rồi dỡ ra… Vừa ăn vừa quạt cho khô hơi nước. Làm như vậy hạt gạo không dính vào với nhau, xôi trắng. Khi ăn nắm xôi không dính vào tay. Đây là món xôi được làm ăn trong tất cả.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon của Tỉnh Thái Bình

Bánh cáy

Các loại bánh đều có thể làm ra ở các vùng quê khác nhau. Nhưng cũng có những loại bánh được gắn liền với từng vùng quê nơi sinh ra nó như: bánh đậu xanh Hải Dương, mè xửng Huế.v.v. bánh cáy là một loại bánh vốn nổi tiếng ở vùng quê lúa Thái Bình.

Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới quốc lộ 39 gặp làng Nguyễn là quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm song đồ quí tiến vua thì chỉ có bánh cáy. Xưa khi quan đại thần triều đình đi kinh lý vùng châu thổ, khi qua làng Nguyễn được dân dâng lên tiến vua vào mỗi dịp tết đến.

Nguyên liệu chính của bánh cáy là gạo nếp và các nguyên liệu phụ: gấc, quả dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn.

Gạo nếp làm bánh được chia làm 2 phần, một phần đồ xôi với nước quả gấc; phần còn lại đồ xôi với nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi. Hai loại xôi này đều được giã bằng chày như làm bánh giầy. Sau khi giã nhuyễn đều, cán mỏng, cắt thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mỡ lợn đang sôi đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn.

Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín ròn, xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch trấu, dậy mùi thơm. Mỡ lợn khẩu muối đường hơn nửa tháng, đem ra thái nhỏ như hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước đường, nước gừng, vở quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ.

Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường mía, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào khuôn gỗ được chuẩn bị sẵn có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ được bánh cáy thành phẩm. Bánh không phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để được rất lâu nếu làm đúng kỹ thuật.

Bánh cáy xắt miếng, ăn xong nên uống nước trà xanh nóng.

Canh cá Quỳnh Côi

Canh cá Quỳnh Côi là món ăn dân tộc, dân dã mang hương vị thơm ngon của vùng quê Quỳnh Côi Thái Bình. Xưa cư dân địa phương chỉ làm canh cá với loại cá rô đồng có màu vàng mượt sống ở vùng có đất sét màu đỏ. Vào tháng 3 hàng năm, cá rô sinh sôi nảy nở. Đến tháng 10 cá ăn hoa lúa nên rất béo và thơm. Cá rô bắt được sẽ dùng làm canh cá.

Ngày nay, cá rô tự nhiên không còn nhiều, muốn làm canh cá có thể dùng một số loại cá nuôi khác để thay thế. Trải qua thời gian, tùy theo từng khẩu vị khác nhau, món canh cá Quỳnh Côi có nhiều cách làm khác nhau đôi chút. Thông thường thì cá dùng làm canh phải còn tươi ngon. Cho cá vào bếp nướng, rán hoặc luộc đến vừa chín tới thì đưa ra khỏi bếp. Sau khi khử sạch vẩy, vây và xương thì cắt cá thành miếng hoặc dằm tơi. Tới đây ta có thể để nguyên mà làm thành canh hoặc có thể tiếp tục đưa cá vào chảo hấp hoặc rán với gừng cho miếng cá trở nên cứng, có mùi thơm và vị cay nóng của gừng già.

Cá sau khi được chế biến như trên được dùng làm canh với bánh đa hoặc cháo, nước dùng và gia vị chanh, ớt, mùi tầu, thì là, rau răm. Món canh cá dùng với sợi bánh đa là ngon nhất. Sợi bánh đa dùng làm canh cá phải được làm từ gạo chiêm mùa trước, sợi phải mỏng, mịn và dai thì bát canh cá mới ngon.

Thưởng thức bát canh cá bốc hơi nghi ngút với rau rút vào mùa hè hoặc rau cải cúc vào mùa đông.

Gỏi nhệch

Ở vùng quê ven biển Thái Thuỵ, ngoài món hải sản nổi tiếng là cá khoai thì còn có món gỏi nhệch. Con nhệch có màu sắc và hình dáng tựa như lươn nước ngọt, chỉ có điều dài hơn một chút. Nhệch càng nhỏ càng tốt cho việc làm gỏi vì xương mềm, thịt mịn và ngọt. Nhệch được làm sạch nhớt bằng tro và lá nhái, sau đó mổ bụng vứt ruột đi, bỏ đầu đuôi, chỉ dùng thân. Thân nhệch được cắt ra nhiều đoạn: mỗi đoạn dài từ 2-3 cm. Mỗi đoạn đó lại được khía làm nhiều khúc nhỏ, không đứt hẳn, sau đó lấy khăn sạch thấm nước và cho vào bát ô tô, rắc bột ngọt, ớt khô, riềng giã nhỏ, thính gạo nếp, chờ dậy mùi là được. Nước dùng chỉ bao gồm 2 vị chua ngọt, vị chua được lấy từ quả cà chua luộc lên mà thành, vị ngọt được tạo nên từ đường. Khi dùng món gỏi nhệch bắt buộc phải có các loại rau như: lá chanh, lá sung, rau húng, tía tô,….
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon Hải phòng

Bún om cá rô Hải phòng

Ở Hải Phòng, có một hàng bún cá rất bình dân nhưng lại được nhiều người ăn và đã ăn thì nhớ mãi. Đó là hàng bún của một bà cụ hay bán ở Cầu Rào. Một gánh bún mà một bên là cái nồi nhôm to tròn, miệng lại nhỏ, chung quanh quấn chăn để ủ cho nóng; còn một bên là bát, thìa, mắm, chanh ớt... Bà cụ bán hàng rất đắt khách, chỉ một lúc là bán hết nồi bún om to tướng.

Món bún om này làm rất dễ mà nguyên liệu chính là cá rô béo, bún, rau cải xanh, thìa là, gừng, hành, hạt tiêu.

Cách làm :

- Cá rô mua về đánh vảy sạch; rau cải, thìa là cũng rửa sạch, để ráo. Đun nước sôi có bỏ một ít gừng tươi giã nhỏ khi sôi thì cho một ít hành tươi rồi bỏ cá vào luộc.

- Cá chín vớt ra để nguội rồi gỡ lấy thịt, nếu gỡ khéo thì dễ dàng nhấc cái xương sống của con cá rồi bóc lấy miếng thịt hai bên mình cá.

- Ướp thịt cá với nước mắm, hạt tiêu, hành khô giã nhỏ, để riêng. Lấy đầu và xương cá đem giã nhỏ và dùng nước luộc cá để lọc lấy nước ngọt sau đó đem đun sôi nước cá thì cho gia vị vào nêm thấy hơi mặn một chút là được.

- Bỏ rau cải vào chần trong nước luộc cá, rồi vớt ra. Tiếp tục đun lại đến sôi thì bỏ bún vào, đun thật to lửa cho sôi bùng cả nồi bún lên rồi bỏ vào đấy thịt cá đã ướp, rau cải chần, thìa là cắt khúc; khuấy đều lên rồi đậy kín vung lại.

- Nếu ăn ngay thì không cần ủ nóng mà múc ra từng bát, nếu muốn để ăn lâu hơn thì lấy cái chăn ủ quấn quanh nồi cá lại. Món bún cá om này ăn nóng vừa ngọt, vừa thanh, vừa thơm, lại đủ mầu rất đẹp: trắng của bún, của thịt cá, xanh của rau và vàng của những cái trứng cá rô lấm tấm.

- Thêm một chút chanh tươi vắt và vài lát ớt đỏ tươi, vừa ăn, vừa xì xụp húp, ăn đến đâu, biết đến đó nhất là vào những hôm trời rét .

(Sưu tầm)
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon xứ Lạng Sơn

Món ngon xứ Lạng

Đến thăm Lạng Sơn, du khách hẳn sẽ hài lòng và thích thú với những món ăn và sản vật độc đáo của xứ này.


Du lịch đến xứ Lạng, khách không chỉ ngẩn ngơ, mải mốt với những núi cùng trời, những hang cùng động, những phố với chợ. Để khám phá những hương vị riêng rất Lạng Sơn, du khách có thể vào các nhà hàng của khách sạn Tam Thanh, khách sạn Bắc Sơn, khách sạn Đông Kinh, khách sạn Kim Sơn hay bất cứ một nhà hàng bình dân hoặc sang trọng nào ở thành phố này. Còn khi đã ngồi vào bàn tiệc, ăn để nhớ, ăn để hiểu về Lạng Sơn, xin bạn đừng quên gọi món vịt quay và thịt lợn quay. Đây cũng là những món trong cỗ bàn sang trọng và tiệc cưới người xứ Lạng hay dùng.

Vịt quay muốn ngon phải là giống vịt bầu Thất Khê. Giống vịt này vừa béo, vừa dầy thịt, xương nhỏ, thịt mềm. Từ kỹ thuật sơ chế tẩm ướp gia vị đến lúc quay để vịt vừa chín tới, tỏa mùi thơm ngậy của thịt vịt và lá mác mật, da vịt căng bóng, có màu vàng sẫm của mật ong là bí quyết riêng của người xứ Lạng. Miếng thịt vịt chặt ra nóng sốt bốc khói, vừa mềm vừa béo, cắn ngập chân răng với mùi vị đặc trưng đấy mới đích thực là vịt quay ngon. Người xứ Lạng ăn vịt quay không chấm nước mắm hay xì dầu mà tự chế một loại nước lủ có đủ vị ngọt, chua, mặn, cay, thơm. Vịt quay có thể ăn cùng với bún và các loại rau diếp, rau thơm, rau xà lách.

Thịt lợn quay ở Lạng Sơn không chỉ là món ăn đặc sản mà còn là lễ vật trong đám cưới của người Tày và người Nùng. Khác với các nơi, thịt quay xứ Lạng được nhồi lá "mác mật" cùng với kỹ thuật quay đã tạo nên hương vị riêng. Lá "mác mật" thường mọc ở trên các núi đá, có mùi thơm đặc biệt, ăn ngọt, có vị chua mát, đem ngâm với ớt, tỏi, chanh rừng thành một món gia vị quý, thưởng thức một lần thật khó quên.

Người ta thường chọn loại lợn nạc từ 25 đến 50 kg để quay. Sau khi mổ, lấy giấy bản thấm khô phía trong (nếu rửa nước, thịt sẽ bở hoặc nhão, không săn, mất hết vị thơm ngọt và bùi), nhồi lá mác mật vào bụng con lợn cùng các gia vị khác rồi khâu lại. Sau đó dùng một cây tre thẳng, rửa sạch xuyên dọc con lợn từ mõm tới đuôi, gác lên hai chạc cây ở hai đầu, bên dưới là đống than củi. Quay lợn không để gần lửa quá dễ nứt da. Mọi người thay nhau quay, vừa quay vừa xoa một loại nước tổng hợp gồm mật ong, gia vị do họ chế biến để giòn bì và khỏi nứt. Người ta vừa quay vừa dùng khăn lau mỡ chảy ra, độ vài ba tiếng đồng hồ tùy con lợn to hay nhỏ. Muốn xem thịt lợn đã chín hay chưa, dùng một que sắt nhỏ chọc vào con lợn thấy nước rỉ ra mầu sẫm là được. Lợn quay đã chín bì vàng đều từ đầu đến chân, tỏa mùi thơm của bì giòn, của thịt chín và của lá thơm, mùi vị rất hấp dẫn. Thịt quay kiểu này ăn rất ngọt vì nước trong thịt không bị mất đi. Miếng thịt lợn quay ngon là thịt vừa chín tới, bì vàng rộm, giòn tan. Khi mua thịt lợn quay, chớ quên lấy nước sốt trong bụng lợn quay. Hương vị thơm ngon đều tập trung ở đây, cùng với mùi vị đặc biệt của lá "mác mật" nhồi bên trong.

Trong những ngày lễ hoặc tiệc lớn của người xứ Lạng như: mừng nhà mới, đám cưới, mừng sinh nhật... nếu thiếu món thịt lợn quay coi như không còn là ngày lễ nữa. Trong bữa tiệc mỗi người chỉ nếm một vài miếng là nhớ mãi hương vị của núi rừng xứ Lạng. Hằng năm, khi xuân sang hoa nở, vào phiên chợ ngày 27-2 Âm lịch tại chợ Ba Xã, huyện Văn Quan (Lạng Sơn), khắp các bản đều đua tài làm món thịt lợn quay. Cả phiên chợ chỉ có món đặc sản này, mọi người tranh thủ nếm món thịt quay, thả tâm hồn vào những câu sli, câu lượn bay bổng giữa núi rừng.

Nếu kể về phở, ngoài các loại phở thông dụng như nhiều nơi khác, xứ Lạng còn có hai món phở rất đặc biệt là phở vịt quay và phở chua. Phở chua được làm bởi bánh phở tươi thái nhỏ (phải thật nhỏ, bánh dai sợi mới ngon) được trộn với các loại gia vị, thịt xá xíu, lạc rang giã nhỏ, trứng vịt luộc bổ tư và nước lủ. Thêm vài cọng rau mùi tàu, mùi ta, vài lát ớt đỏ tươi rắc trên đĩa, bạn đã có một món điểm tâm rất ngon, ăn không bị ngấy bởi vị chua ngòn ngọt, cay cay, bùi bùi rất thú vị.

Còn phở vịt ở xứ Lạng nếu bạn đã lên mà không thưởng thức một lần thì thật hoài! Có một loại gia vị người xứ Lạng thường ăn kèm với phở không thể thiếu là măng chua ngâm với ớt, tỏi và "mác mật" - một loại gia vị vào loại hảo hạng của Lạng Sơn. Chọn măng gì, ngâm một lọ măng ớt như thế nào cho ngon, đấy là cả một nghệ thuật. Nếu đã đến xứ Lạng, bạn đừng quên mua một vài lọ măng ớt về ăn dần hoặc làm quà. Măng ớt xứ Lạng cũng ví như mắm tôm chua xứ Huế, mắm nhót xứ Nghệ, nhân dân cũng đóng lọ, đóng gói bán nhiều ở chợ Kỳ Lừa, chợ phố Đồng Mỏ. Song cũng là măng ớt nhưng ăn măng ớt ở mỗi nhà hàng đều có hương vị riêng. Hẳn mỗi nhà hàng đều có bí quyết riêng.

Có một món ăn điểm tâm nữa rất Lạng Sơn là món bánh cuốn trứng ăn nóng. Kỹ thuật tráng bánh cuốn của người xứ Lạng cũng giống như một số địa phương khác có tập quán ăn bánh cuốn nóng. Không như bánh cuốn Sài Gòn nhiều nhân, ăn chung với chả giò, nem, giá trụng, rau thơm, hay như bánh cuốn Hà Nội lớp nhân mỏng và rắc lên trên ruốc thịt, rau kinh giới, bánh cuốn trứng Lạng Sơn chỉ đơn giản có trứng gà và một chén nước chấm là nước thịt kho.

Chiếc bánh cuốn Lạng Sơn được tráng trên một chiếc nồi khá lớn, đường kính dễ chừng 4 tấc. Khi chiếc bánh tráng trên nồi vừa chín, người ta giở nắp vung, đập vào chiếc vá và bỏ vào hai bên của chiếc bánh hai quả trứng gà, đậy nắp lại một chút, chờ vừa đủ cho lớp lòng trắng đục lại, dính vào mặt bánh, phần lòng đỏ lúc ấy chỉ vừa đủ chín một lớp áo bọc thật mỏng bên ngoài, giúp cho chiếc trứng không bị vỡ. Sau đó người ta dùng một chiếc đũa tre dẹp, chia chiếc bánh làm hai phần, khéo léo hất nhẹ các góc của nửa chiếc bánh xếp lại, phủ một phần của cái trứng nhưng không phủ kín, trông rất đẹp mắt và bày ra đĩa, rắc thêm một lớp thịt nạc kho được chà nhuyễn thành từng sợi nhỏ.

Cảm giác thật ấm áp khi một lớp khói - hơi nước bốc lên từ nồi hấp cuồn cuộn nóng hổi. Người bán múc cho mỗi người một chén nước chấm cũng là nước thịt kho, với lớp nước mỡ thật dày. Ăn bánh cuốn trứng Lạng Sơn không thể gắp, không thể chấm mà phải chan nước chấm lên mặt, dùng muỗng múc thật khéo lòng đỏ của trứng. Tráng bánh cuốn cũng phải thật khéo léo để trứng không bị vỡ.

Xứ Lạng không chỉ có nhiều món ăn ngon, độc đáo, hợp khẩu vị mà còn có nhiều sản vật khác cũng rất nổi tiếng. Về các loại quả: trước hết phải kể đến đào Mẫu Sơn. Giống đào này trồng ở độ cao hàng ngàn mét so với mực nước biển, có hoa đẹp, quả to, khi chín đỏ hồng. Đào Mẫu Sơn ăn giòn, thơm, ngọt, bổ. Rồi mơ (Tràng Định), mận (Bình Gia), lê (Thất Khê), quýt (Bắc Sơn) chín ngọt như cam, hồng Bảo Lâm (Cao Lộc) ngon không đâu sánh kịp. Những năm gần đây, còn có vải thiều (Hữu Lũng) cùi dày hạt nhỏ ngon chẳng khác gì vải thiều Lục Ngạn. Mía (Na Sầm) ăn vừa mềm, vừa ngọt. Dưa hấu (Lộc Bình) ruột đỏ, cát to ngọt lịm. Vào mùa thu này, lên xứ Lạng, bạn sẽ được thưởng thức na dai - một giống quả thơm ngon vào loại đặc sản. Giống na này được trồng nhiều ở các triền núi đá huyện Chi Lăng. Có thể nói, ở xứ Lạng vùng quê nào cũng có những loại hoa quả ngon. Nếu cần mua làm quà, khách có thể mua thêm các loại sản vật của rừng: mật ong, nấm hương, mộc nhĩ, chè khô, măng khô...

Đến thăm Lạng Sơn, du khách hẳn sẽ hài lòng và thích thú với những món ăn và sản vật độc đáo của xứ này.

Rau xứ Lạng

Cho đến bây giờ, cứ ai lên Lạng Sơn, ngoài việc mua sắm mặt hàng gia dụng lúc về không quên mua thêm một túi cải ngồng, bao giờ cũng vậy cứ đi về là phải mang cải ngồng. Cải ngồng đã trở thành một món ăn không thể thiếu trong các bữa cơm đặc sản khi lên Lạng Sơn và trong hành trang mang về làm quà cho những người thân trong gia đình. Tiện thì mang nhiều, không tiện thì mang ít, nhưng không thể thiếu.

Cải ngồng Lạng Sơn thật đặc biệt. Mới nhai có thể thấy đăng đắng nhưng ăn vào rồi mới thấy vị ngòn ngọt, man mát. Dường như món ăn Việt Nam đặc sắc ở chỗ ấy, nào là mướp đắng, rau đắng, giờ là cải ngồng, mới ăn có thể thấy đắng nhưng cái dư vị còn sót lại thấm trong thực quản là vị ngọt bùi. Phải chăng những thức ăn này còn ẩn chứa trong lòng nó một triết lý: có nếm cay đắng rồi mới thấy sự ngọt bùi? Có thể lắm chứ! Cái triết lý ấy làm những thực khách thích suy ngẫm cảm thấy thú vị hơn khi thưởng thức món ăn - thưởng thức một thú văn hóa. Còn cái vị ngọt của ngồng cải luộc hoặc chao dầu chấm thêm chút xì dầu thì vấn vương mãi trong lòng người thưởng thức.


Bên cạnh rau cải ngồng, xứ Lạng còn có một thứ rau có cái tên là lạ - rau bò khai - một thứ rau rừng thoạt trông như một loại cỏ có cái màu xanh non tơ yểu điệu như người con gái xứ Lạng. Cách ăn món rau này cũng hơi khác. Người ta xào bò khai chung với mỳ, mỳ ở đây chính là loại bánh phở sợi nhỏ và dài. Mỳ phải xào hơi giòn một chút, nêm đậm đà một chút. Khi bày ra đĩa, màu xanh mát của rau hòa quyện với màu trắng ngà của mỳ trong cái ngậy của mỡ chiên nóng hổi đủ làm thực khách thấy ngon mắt. Ăn một lần thì nhớ mãi.

Các món ăn được chế biến từ rau Lạng Sơn quả là món khai vị tuyệt vời. Vị ngọt, thanh, mát… làm giảm đi cái ngấy của những món chiên xào nhiều dầu mỡ. Mà với những người ăn kiêng thì đây quả là một bữa đại tiệc rau. Chỉ với cải ngồng ta đã có thể chế biến nhiều món, nào là cải ngồng luộc, cải ngồng chao dầu, cải ngồng xào tỏi, cải ngồng xào thịt bò… Món nào cũng hấp dẫn cũng ngon lành cả. Nào còn cà tím, khoai môn cũng được người dân xứ Lạng chế ra những món ăn lạ miệng. Khoai môn bao bột và cà tím bao bột chắc chắn sẽ là hai món làm không ít người bất ngờ thú vị. Khoai môn bao thịt đã được băm nhuyễn rồi tẩm bột chiên vàng, chấm với xì dầu điểm vài lát ớt cay. Cũng tương tự như vậy với món cà tím, toàn những thứ nguyên liệu quen mà ăn vẫn thấy lạ thấy ngon. Thế mới hay thức ăn ngon không hẳn vì cầu kì hay khó kiếm mà là do cái tài, cái khéo của người nấu gửi gắm trong đó.

ánh áp chao

Khi tiết trời se lạnh bước vào mùa thu thì cũng là lúc trên các đường phố Lạng Sơn mọc lên nhiều quán ăn đêm với nhiều món ăn đặc trưng của xứ Lạng, trong đó có món: bánh áp chao.

Áp chao được gọi phiên âm theo từ Hán Việt, có nghĩa là "vịt chao". Là loại bánh được chế biến từ gạo nếp và gạo tẻ, gạo nếp chiếm tỷ lệ 3/4. Gạo đem xay bột nước, lọc bột cho khô vừa ở độ rền rệt, thái thêm lá hành cho vào, cho thêm chút xì dầu vào bột đảo cho thật đều.

Thịt vịt làm sạch chặt miếng quân cờ ướp húng lìu, bột canh hoặc muối tiêu, hạt tiêu cho vừa. Lấy muôi dán làm bằng nhôm múc bột đầy muôi, cho miếng thịt vịt vào giữa muôi bột ấn đều bột ngâm miếng thịt vịt. thả cả muôi bột vào chảo mỡ đang sôi, 3 phút sau bánh chín gỡ bỏ ra, đảo bánh đều khi nào bánh ngả màu vàng là được. Vớt bánh ra ăn nóng với đu đủ ngâm, dấm ớt, tiêu và rau diếp.

Người bán bánh áp chao còn đem các bộ phận khác của con vịt như cổ cánh, chân, lòng mề vịt được tẩm ướp gia vị chao lên, có hương vị rất thơm ngon, hấp dẫn.

Bánh áp chao là món ăn được người dân xứ Lạng rất ưa thích, có thể dùng thay bữa tối, bữa ăn khuya.

Khách du lịch dừng chân tại một quán nhỏ ven đường, ăn bánh áp chao vào buổi tối trong tiết trời se lạnh, nhấp một chút rượu Mẫu Sơn, sẽ cảm nhận được rất nhiều điều thú vị của văn hoá ẩm thực xứ Lạng.

Măng ớt xứ Lạng

Lạng Sơn không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh tuyệt vời như phố Kỳ Lừa, nàng Tô Thị, chùa Tam Thanh... mà còn nổi tiếng với những món ăn độc đáo, mang đậm bản sắc của núi rừng thơ mộng. Một trong những món ăn dân dã mà có hương vị rất riêng của vùng núi đá địa đầu Tổ quốc này là món măng ớt.

Trong bữa ăn thường ngày của người dân nơi đây, măng, ớt, quả và lá cây mắc mật là món ăn quen thuộc. Đây là những nguyên liệu dễ kiếm, dễ làm, rất hợp khẩu vị, có thể chế biến cả món canh lẫn món ăn mặn.

Măng phải chọn thứ măng mai hoặc măng nứa, củ to. mập, thái miếng to bản vừa ăn. Ớt là loại ớt nhỏ, cay, có thể để nguyên cả quả để ngâm. Lọ măng ớt ngâm giấm là cả một tác phẩm nghệ thuật, với hương vị đặc trưng chỉ ở Lạng Sơn mới có.

Trên bàn ăn mà người xứ Lạng dùng để đãi các du khách từ phương xa đến, bên cạnh đĩa phở truyền thống, đĩa vịt quay vàng rộm, luôn có thêm món măng chua, mắc mật đựng trong những chiếc bát sứ nho nhỏ trắng tinh trông như những bông hoa rừng. Mầu trắng ngà của măng tre, măng nứa, quyện trong mầu đỏ của ớt, cùng những quả mắc mật mầu nâu óng ánh như mời chào thực khách.

So với món măng ngâm của nhiều vùng quê khác thì món măng chua, mắc mật Lạng Sơn ngoài vị chua chua, ngòn ngọt của măng ngâm chín tới còn có vị cay dìu dịu vừa thơm, vừa nồng, phảng phất mùi vị hoa quế, hoa hồi của quả mắc mật chỉ mọc được ở vùng núi đá Lạng Sơn này mà thôi. Sự đan quyện giữa chua, cay, ngọt, mặn cùng hương thơm của các loại nguyên liệu có trong món ăn này làm dịu đi cảm giác béo ngậy của những món ăn nhiều đạm, nhiều mỡ,... tôn thêm sức hấp dẫn của món vịt quay nổi tiếng ở vùng biên giới.

Trong cái lành lạnh của đêm cuối thu vùng núi cao, ngồi bên bếp than hồng, uống rượu men lá hoặc rượu cần Lạng Sơn với món vịt quay béo vàng, điểm chút măng chua, mắc mật, cảm nhận vị béo của thịt hòa lẫn trong vị chua, cay của măng, của ớt, của quả mắc mật, lắng nghe tiếng hát then, tiếng mưa rơi tí tách ngoài cửa sổ, khiến cho chén rượu cứ vơi lại đầy.

Cái cảm giác như thực, như mơ ấy đã làm cho biết bao nhiêu khách du lịch, nhất là khách du lịch ngoại quốc khi rời khỏi nơi đây đều tìm mua bằng được vài lọ măng chua, mắc mật về để biếu bạn bè, người thân để họ, có dịp thưởng thức hương vị lạ của đặc sản vùng quê xứ Lạng...

Lợn quay



Là món ăn đặc sản, sang trọng không thể thiếu được trong cỗ bàn của người Lạng Sơn.

Món thịt lợn quay không chỉ ngon mà còn được chế biến cầu kỳ, có hương vị rất riêng mà chỉ ở Lạng Sơn mới có được.

Lợn quay phải chọn những con to vừa phải khoảng 20-35kg, lợn được làm sạch, lấy hết lục phủ ngũ tạng ra, để nguyên con và cho lá mác mật vào bên trong bụng lợn rồi sau đó xiên vào một chiếc đòn sắt dài.

Lợn được quay trên đống than hoa hồng rực, vừa quay vừa được bôi mật ong pha dấm lên da để bì lợn lúc chín có màu vàng sậm, giòn tan và không bị nứt.

Lợn quay kiểu Lạng Sơn giữ nguyên được vị ngọt béo ngậy của thịt vừa chín tới, hoà cùng vị thơm của lá mác mật, ăn một lần là nhớ mãi.

Rượu Mẫu Sơn


Là thứ rượu nổi tiếng của Lạng Sơn đã được đoạt giải Sao vàng Đất Việt.

Đây là tên gọi chung của loại rượu được đồng bào các dân tộc thiểu số ở đỉnh núi Mẫu Sơn với độ cao hơn 1.500 m so với mực nước biển, cách Thành phố Lạng Sơn chừng 30 km chưng cất từ các loại nguyên liệu truyền thống như: gạo, ngô, men lá...

Có hương vị đặc trưng, thơm ngon, trong vắt, uống rất êm, không quá nhạt và cũng không quá cay nồng. Rượu Mẫu Sơn mang cái ấm nóng để xua đi bầu không khí giá lạnh trong mùa đông ở Lạng Sơn.

Thưởng thức các món ăn như lợn quay, vịt quay phải có thêm chút men say nồng nàn của rượu Mẫu Sơn mới thật là tuyệt, là nét đặc trưng của ẩm thực xứ Lạng.


Phở chua


Phở chua là một món phở đặc biệt của xứ Lạng, bánh phở tươi thái thật nhỏ (bánh phở phải dai thái càng nhỏ càng ngon) xóc qua nước nóng cho tơi sợi phở. Đem trộn đêu với cac loại gia vị, giá đỗ xanh, thịt xá xíu, lạc rang giã nhỏ, nước lủ. Trứng vịt ta luộc chín bổ tư hoặc thái mỏng xếp lên trên mặt phở . Thêm vài cọng mùi tàu, mùi ta thái chỉ, vài lát ớt đỏ tươi rắc lên trên đĩa , ta có món phở chua độc đáo, ăn không bị ngấy, có thể ăn no phở vừa có vị chua chua, ngòn ngọt, cay cay, bùi bùi rất thú vị. Ngày nay trong đám cưới và trong tiệc tùng quan trọng người Lạng Sơn cũng hay làm món phở chua


Xôi nhộng ong

Vào mùa thu cũng là lúc thu hoạch mùa màng, gặt xong lúa mùa đồng bào thường làm tết ăn cơm mới để tạ lễ thần nông đã cho thu hoạch mùa màng tươi tốt.

Trong dịp tết ăn cơm mới, có nhiều gia đình vào rừng tìm lấy một vài tổ ong rừng để làm món xôi nhộng ong.

Nhộng ong thường được lấy từ tổ ong ở trên cây, lấy được nhộng ong ra người ta đem ướp gia vị muối tiêu hành hoa xong đem xào dậy mùi thơm. Chõ xôi gạo mới đồ chín còn để trên bếp, đem nhộng ong đã xào chín đảo đều với xôi nóng ta sẽ được món xôi nhộng ong vừa thơm, béo, bùi, dẻo, bổ. Có được món xôi nhộng ong ăn thật là món ăn đặc sản.

Đồng bào quan niệm rằng trong ngày tết cơm mới mà có món xôi nhộng ong thì mùa năm sau sẽ may mắn, gia cầm gà, vịt sẽ sinh sôi nảy nở nhiều như tổ ong. Tết cơm mới với món xôi nhộng ong, bạn sẽ đừng quên Xứ Lạng.


Vịt Quay


Vịt Quay: Món ăn đặc sản nổi tiếng của Lạng Sơn, nhất là Vịt Quay Thất Khê. Vịt sau khi được làm sạch, được nhồi gia vị và nhất là lá cây Mác Mật vào bụng rồi khâu kín lại. Sau đó bỏ vịt vào dầu lạc hoặc mỡ đun sôi đến khi chín vàng. Thịt vịt quay da giòn, có hương vị thơm ngon, hợp khẩu vị mọi người và rất được ưa thích.

Vịt quay là món ăn không thể thiếu trong tiệc tùng, lễ hội và cả ngày thường của người dân Lạng Sơn. Hiện nay, vịt quay Lạng Sơn đã trở thành thương hiệu hàng hoá nổi tiếng, được cung cấp cho các khách đến tham quan, du lịch tại Lạng Sơn đem về làm quà biếu hoặc dùng trong bữa cơm gia đình.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngo Cao Bằng : Ai đi nhớ ăn nhé

Cao Bằng còn là vùng đất của những loài thảo dược quý có tác dụng chữa bệnh như chè đắng, chè dây, mật ong thơm ngon mang đậm hương hoa rừng và có giá trị dinh dưỡng cao.

Đến Cao Bằng, quý khách cũng đừng quên thưởng thức món phở chua đặc trưng, món bánh cuốn trứng.…Tất cả sẽ góp phần làm phong phú hơn nghệ thuật ẩm thực của du khách trong cuộc hành trình đi tìm những khám phá mới trên mảnh đất vùng cao.


Bánh cuốn Cao Bằng có những vị riêng mà không nơi nào có được. Để có được những tấm bánh mỏng và dai, người làm bánh phải chọn loại gạo thích hợp. Trứng gà hoặc thịt băm nhỏ thường được dùng làm nhân của bánh cuốn. Bánh cuốn được ăn với nước dùng được chế biến cầu kỳ với một lượng gia vị hợp lý.

Bánh coóng phù của người Tày được làm từ bột nếp có pha một tỷ lệ bột tẻ. Vào ngày đông chí, nhà nào ở Cao Bằng cũng làm bánh này để cúng tổ tiên. Vào những đêm đông giá lạnh ở Cao Bằng, bạn có thể tạt vào quán ven đường, góc phố nào đó để nhấm nháp bát coóng phù. Vị ngọt của đường phèn, vị cay ấm và thơm của gừng, vị bùi của lạc và hương thơm của gạo trắng Cao Bằng sẽ làm tan biến cái giá lạnh, sưởi ấm lòng người.

Bánh áp chao là món ăn quen thuộc của người dân Cao Bằng vào mùa đông giá lạnh. Loại bánh này được làm từ bột nếp, nhân được làm bằng thịt vịt hoặc thịt phi hành, tất cả được cho vào khuôn thả xuống chảo mỡ đang sôi trong chốc lát bánh sẽ chín vàng. Bánh thường được ăn kèm với nộm đu đủ, rau húng, rau diếp, mùi tàu….


Bánh khẩu phảng được làm từ khẩu phảng, một loại cao lương giống địa phương. Hạt cao lương thu hái được phơi khô, giã sàng, sảy lấy phần nhân sau đó ngâm gói thành bánh như kiểu bánh tét. Nhân bánh được làm từ đỗ xanh, bóc bánh có màu vàng nhạt, ăm thơm ngon.


Pẻng Rày là bánh nếp nhân trứng kiến, bọc ngoài bằng lá vả non. Gạo nếp được ngâm, xay thành bột sau đó nặn bánh to bằng quả trứng gà, ép mỏng, cho trứng kiến đã qua chế biến, tẩm ướp gia vị vào giữa, dùng lá vả non gói bên ngoài, cho vào chõ hấp chín. Trứng kiến thường dùng là trứng loài kiến nhỏ màu đen. Người Tày gọi giống kiến này là tua Ràu, thường làm tổ trên các loại cây có nhiều gai như găng, bồ quân, kim anh… Loại trứng kiến này có màu trắng muốt và bé tẹo bằng đầu tăm.
.:.

Lợn sữa quay Cao Bằng đã đạt huy chương vàng tại Hội thi “Chế biến các món ăn dân tộc” do Tổng cục Du lịch tổ chức năm 2002 tại Hà Nội. Người dân Cao Bằng thường chọn loại lợn giống địa phương nặng 4-6 kg để quay. Sau khi sơ chế xong, dùng giấy bản thấm khô mình con lợn bởi nếu rửa bằng

nước thịt sẽ nhão, không săn và mất hết vị ngon. Sau đó, nhồi lá mác mật cùng các gia vị khác vào bụng con lợn rồi khâu lại, dùng cây tre xuyên từ mõm tới đuôi rồi quay

trên bếp than hồng, vừa quay vừa dùng mật ong và các loại gia vị phết lên mình con lợn để cho giòn bì và khỏi nứt. Muốn xem thịt đã chín chưa, dùng que sắt nhỏ châm

vào thịt, thấy rỉ ra nước màu sẫm là được. Mùi thơm toả ra nghi ngút, thịt quay ngon là thịt vừa chín tới, bì vàng rộm, giòn tan. Thịt lợn quay được dùng với nước chấm được pha chế riêng.

Phở chua là món ăn được chế biến khá cầu kỳ, phản ánh nghệ thuật ẩm thực của người dân Cao Bằng. Một nhúm phở đã được làm se lại vừa dẻo, vừa dai dàn đều trong bát, bên trên là những lát gan, lạp sườn được rán cháy cạnh thêm nữa là vài lát thịt ba chỉ, dạ dày lợn đã được rán vàng cùng những miếng thịt vịt quay vàng rộm, trên được điểm mấy ngọn rau thơm, chút lạc ràn đập dập, miến, khoai tầu thái chỉ chao giòn. Sau đó, rưới lên trên một chút nước sốt được chế từ nước lấy từ trong bụng con vịt quay pha với một chút dấm, tỏi, đường và bột báng. Khi ăn, trộn đều bát phở, thêm chút mác mật ngâm măng ớt. Phở ăn có vị ngậy của mỡ vịt, vị chua cay man mác của măng ớt, bùi của lạc và khoai tầu, thơm của mác mật.

Cháo nhộng ong là loại cháo được nấu với những con nhộng trắng nõn nà và to bằng ngón tay út. Khi nấu, chọn loại gạo non rồi thả một số nhộng còn sống vào khi cháo đã chín dừ. Số nhộng còn lại tẩm ướp gia vị rồi rang cùng với hành, trộn với từng bát cháo.

Cao Bằng, xứ sở của những cọn nước, của các suối nguồn trong vắt và những cô gái áo chàm. Không chỉ nổi tiếng gạo trắng, nước trong, đây còn là một vùng văn hoá ẩm thực với các đặc sản và món ăn độc đáo, nức tiếng gần xa.


Mùa này, tiết trời Cao Bằng đã se lạnh, thị xã miền núi đẹp một cách huyền ảo . Lên đây vào dịp chợ phiên, du khách có dịp thưởng thức nhiều món ăn thể hiện nét tinh tế trong nghệ thuật chế biến ẩm thực đầy khéo léo. Hai món ăn hấp dẫn thu hút đông người ăn nhất vào các buổi sáng sớm có lẽ là bánh cuốn nóng chan nước canh xương và phở chua.

Bánh cuốn và phở thì nhiều vùng phía bắc cũng có nhưng ở Cao Bằng lại mang một vị riêng đặc sắc không thể lẫn vào đâu được. Bánh cuốn ở đây ngon, vừa dai, vừa thơm vì được làm bằng thứ gạo Cao Bằng ngọt dẻo, và còn lôi cuốn bởi phương thức pha trộn trong vị ngọt đậm của nước canh xương thoang thoảng mùi vị ớt măng ngâm quả mác mật, thảo quả.

Phở chua thì có vẻ cầu kỳ hơn một chút với nhiều gia vị trộn lẫn trong bánh phở và miến, khoai, thịt ba chỉ, dạ dày lợn thái nhỏ từng sợi chao mỡ vàng rộm, rưới nước dấm ớt và lạc. Ăn phở chua, thực khách được nhấm nháp mùi vị và thỏa mãn cảm giác mầu sắc món ăn.

Một thú vị khác của ẩm thực Cao Bằng là các món ăn chế biến từ thịt lợn như thịt lợn ướp bột gạo chua của Bảo Lâm, Bảo Lạc, thịt nướng, chả cuốn mác mật Quảng Uyên rồi vịt quay, lợn sữa quay nhồi lá mác mật vàng rộm, thơm ngọt từng con được quảy đến pha, chặt rộn ràng trong phiên chợ, tạo nên không khí nhộn nhịp, sôi động. Người Cao Bằng đã khéo léo kết hợp trong các món ăn những nguồn gia vị thực phẩm phong phú sẵn có của núi rừng tạo được nhiều món khoái khẩu như ong đất xào măng, lẩu cá chua, xôi trám đen thơm ngậy, rêu đá Tầu Quầy xào, cốm hạt dẻ, bánh khảo, khẩu sli, bánh gio, cơm lam chấm măng ớt, v.v. Những món trên nếu được nhấm nháp bằng thứ rượu Tắp Ná huyện Thông Nông hoặc rượu Lẩu Pảng huyện Hà Quảng thì thật tuyệt vời. Rượu Lẩu Pảng được trưng cất từ bột cây báng lâu năm trên núi đá, men làm từ quả trầm hương, ủ bột xuống đất gần một tháng, đợi tiết trời vào thu có nhiều sương thì đem phơi rồi mới đem trưng cất. Ðây là thứ rượu thuốc quý, bồi dưỡng sức khỏe và phòng chữa được nhiều bệnh.

Ðến Cao Bằng, du khách cũng nên thưởng thức và mang theo nhiều món đặc sản làm quà cho người thân, bạn bè khi về xuôi. Đã có hơn 100 sản vật nổi danh các vùng như chè đắng Thạch An, sản phẩm đạt chất lượng cao trong các kỳ hội chợ toàn quốc; hạt dẻ, tương mạch Cô Sầu huyện Trùng Khánh; măng khô, măng bào chua, mía đường Bảo Lâm, Bảo Lạc, Phục Hóa; mật ong Nguyên Bình; lê Ðông Khê. Tất cả sẽ góp phần làm phong phú thêm vốn hiểu biết về nghệ thuật ẩm thực của du khách trong cuộc hành trình khám phá về một vùng đất đẹp, giàu tiềm năng.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon Thái nguyên đây. mời ăn

Là một tỉnh trung du miền núi nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam với 9 dân tộc anh em chung sống từ rất lâu đời

Thái Nguyên có dân số 1,1 triệu người, người Kinh chiếm 75,5%. Tày 10,7%, Nùng 5,1%, Sán Dìu 2,4%, Dao 2,1%, còn lại là Cao Lan, Mông, Hoa, Ngái (4,2%).

Mùa xuân về, nắng ấm, cây cối tốt tươi là lúc diễn ra các lễ hội trong niềm mong đợi của mọi người dân vùng Việt Bắc. Đến với lễ hội là du khách được đến với những quan niệm về sự linh thiêng của mỗi một tộc người và thú vị hơn du khách còn được chiêm ngưỡng và thưởng thức nhiều món ăn ngon miệng và lạ mắt mà người dân địa phương đời đời dày công gìn giữ để dâng tặng lên đấng toàn năng mỗi dịp xuân về. Đó là bánh khảo, bánh dày, bánh lẳng, bánh chưng, cơm lam, xôi ngũ sắc. Mùi thịt lợn sữa quay thơm ngon với những phụ gia hái trên rừng như lá mác mật, lá ổi, chanh, xả tạo nên mùi vị đặc trưng khó quên cho món ăn ngày hội.

Mỗi dân tộc lại có những món ăn và cách chế biến riêng. Ngày Tết, chúng ta vẫn quen với chiếc bánh chưng hình vuông. Nhưng người Tày lại gói những chiếc bánh dài độc đáo. Bánh được gói bằng lá dong hoặc chít, gói theo dạng hình trụ, quấn bằng lạt giang. Thái Nguyên có đặc sản bánh chưng Bờ Đậu được nhiều người biết đến, bánh được gói bằng thứ nếp ngon của vùng Định Hoá, khi chín bánh rền và có màu xanh của lá. Bí quyết làm bánh ngon được người dân vùng này giữ kín và lưu truyền trong gia đình từ đời này qua đời khác… Bánh tro của người Kinh thường gói dài, còn người Dao lại gói theo hình phễu, đầu to đuôi nhọn…

Đặc biệt hơn cả là món xôi ngũ sắc. Lên với ATK Định Hoá, món xôi ngũ sắc sẽ gợi cho du khách nhiều tò mò bởi màu sắc độc đáo. Những hạt xôi dẻo thơm được đồ bằng gạo nếp cái hoa vàng nổi tiếng vùng Định Hoá. Màu xôi đẹp tự nhiên và hấp dẫn, 5 màu chính của xôi là trắng, đỏ, xanh, tím, vàng. Trắng là màu nguyên của gạo, các màu còn lại được tạo nên bằng cách ngâm gạo với nước của các loại lá và củ cây rừng. Món này ăn với Khâu Nhục thì thật tuyệt vời.

Một sản vật khác của người dân tộc Việt Bắc cũng có nguồn gốc từ gạo đó là cơm lam. Cơm lam là món ăn ngon miệng, dễ chế biến khi đi rừng, làm nương. Có thể nấu tại chỗ bằng ống nứa tươi chặt ở trên rừng. Người ta chọn gạo nếp ngon đem ngâm nước cho mềm, vớt ra để ráo rồi đổ vào ống nứa tươi, bịt miệng ống bằng là chuối. Sau đó nướng trên bếp lửa hoặc trên than củi hồng. Khi nào nhìn thấy vỏ ngoài của ống nứa đã héo quắt thì coi như cơm chín, đem ra để nguội rồi bóc ăn. Cơm lam chấm với muối vừng rất ngon, dẻo lại thơm.

Đến Thái Nguyên, mỗi mùa lại có món ăn đặc trưng riêng. Có thời gian rẽ vào các chợ huyện du khách có thể mua rất nhiều sản vật của địa phương như: gà đồi, rau rừng, củ quả, bánh trái. Mùa xuân có rất nhiều măng: măng đắng, măng vầu, tre, nứa,… Măng tươi mua về xào tỏi rất ngon, luộc chấm muối vừng hay thái ra làm món măng ớt chua ăn dần trong nhiều tháng. Mùa hè có nhiều củ, quả, đặc biệt là rau rừng: rau bò khai, rau ngót rừng, rau rớn. Mùa thu có trám rừng quả đen, quả trắng. Người dân tộc hái những quả chín đem về "om". Trám đen nấu xôi cũng ngon và lạ miệng. Khi tiết trời se lạnh, bên nồi canh gà gừng ănvới cơm nấu bằng gào Bao Thái Định Hoá ngon nổi tiếng và uống rượu nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng thì thật khó quên. Một số món ăn ngon chế biến từ sản vật rừng như: trám đen kho thịt, trám trắng kho cá, măng nhường nhồi thịt, nộm bí chuối rừng,…

Bên cạnh đồ ăn thì thức uống là một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực. Thái Nguyên được biết đến với những đồi chè xanh và vùng chè ngon nổi tiếng. Người Thái Nguyên có thói quen uống nước chè tươi hoặc chè khô đã qua sao tẩm. Ngoài ra còn rất nhiều loại lá cây rừng được hái về đun nước uống hay chè như lá vối, lá ổi, nhân trần…

Rượu được chế biết từ nhiều loại lương thực khác nhau như: gạo, ngô, sắn. Ngon nhất là được nấu từ gạo nếp cái hoa vàng vùng Định Hoá. Người Tày còn nấu rượu cất từ bột cây báng, cây đao. Các loại rượu rắng cất nấu đem ngâm với đặc sản lấy từ thực vật để tạo ra nhiều loại rượu khác nhau có tác dụng bổ dưỡng cơ thể.

Người Tày có kinh nghiệm cắt thuốc nam và hái lá cây rừng làm nước uống bổ dưỡng. Các loại cây như nước sắc cây tầm gửi, cây nghiến có tác dụng khoẻ gân cốt, cây hà thủ ô rừng bổ máu, chữa bạc tóc sớm; quả trám trắng chữa ho,; phật thủ chữa đầy hơi khó tiêu; quả mác mật giúp hạ sốt,…

Ẩm thực Thái Nguyên, bên cạnh việc gìn giữ những khẩu vị ưa thích và truyền thống của các món ăn phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, lại có xu thế biến đổi và hội nhập thêm các món ăn mới, cách chế biến mới. Chính điều này đã tạo cho văn hoá ẩm thực ngày càng phong phú và hấp dẫn. Mời bạn hãy về với Thái Nguyên để thưởng thức và mang những món quà của núi rừng Việt Bắc về cho những người thân yêu…

"
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già"
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Đặc sản Lai Châu - Sơn La

Măng lay chấm chẻo - Đặc sản ẩm thực Sơn La , Lai Châu


Hằng năm, từ tháng tư đến tháng mười dương lịch, trong bữa ăn hằng ngày của người Thái, người Mường, người Kinh vùng Tây Bắc, không ở đâu là không có món măng lay chấm chéo, đặc sản vùng Sơn La - Lai Châu.


Măng lay là một loại cây leo, mọc nhiều ở ven núi, chân đồi, ven quốc lộ... mọc thành từng bụi lớn, thân cây nhỏ bằng ngón tay cái, cong queo. Sau những cơn mưa đầu mùa là lúc măng lay bắt đầu mọc, rộ nhất là giữa tháng sáu, tháng bảy. Hằng ngày người lớn, trẻ em vác thuổng nhỏ đào mang về, luộc ngay để ăn hoặc bán ngoài phố.

Măng lay luộc không phải chấm với nước mắm, hoặc mắm tôm, mà độc đáo ở chỗ chấm với chéo, nên có tên là "măng lay chấm chéo". Chéo để chấm măng lay làm cầu kỳ, tùy theo số măng nhiều hay ít, ta lấy vài thìa muối, ít lá mùi tàu thái nhỏ, thêm thìa ớt xẻn khô, và trộn loại ớt đã nướng trên tro nóng để lâu trên gác bếp cho thật khô giã nhỏ, có người còn trộn thêm vài nhánh tỏi là được một bát chấm chéo thú vị.

Măng luộc để cả vỏ, xếp trên mâm ăn đến đâu tự bóc chấm chéo đến đó. Măng lay chấm chéo ăn rất thú vị: vị ngọt của măng, vị thơm của mùi tàu, vị cay thơm của ớt xẻn, ớt khô nướng quyện vào nhau có cảm giác là lạ không giống các loại măng khác, ăn nhiều không ngái, không đầy bụng.

Ngày xưa, măng lay là sản phẩm tự cấp của nông dân, giờ lại là thứ nông sản hàng hóa có giá trị. Người chuyên khai thác măng mỗi ngày có thể bán được vài ba chục nghìn đồng. Nếu gánh măng luộc đem bán, có bán kèm mùi tàu, ớt khô, mác khén sẽ rất đông thực khách thưởng thức món măng dân dã đậm đà hương vị của núi rừng Tây Bắc.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon ở Yên Bái

Cá xỉnh Mường Lò - Yên Bái


Tới Mường Lò (thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái), du khách sẽ được thưởng thức cơm lam, nếp Tú Lệ, chè tuyết Suối Giàng... Nhưng Mường Lò có một món ăn đặc biệt mà ai có dịp thưởng thức hẳn không thể nào quên, đó là pa khính.


Người Thái ở đây có câu nói: "Nòn chậu kin phắc, nòn sai kin pa" tức là: "Ngủ sớm ăn rau, ngủ muộn ăn cá" nói lên tập quán đánh cá đêm trên các dòng suối. Trong hàng chục loại cá đánh được mỗi đêm thì pa khính (cá xỉnh) là loại cá được ưa chuộng nhất.

Cá xỉnh mình dài, thon, đầu nhỏ, vẩy trắng, lườn có ánh xanh trông rất đẹp mắt. Con nào to lắm chỉ cỡ 4 ngón tay, còn thường là bằng 2 - 3 ngón tay nhưng thịt cá xỉnh ăn tuyệt ngon.
Bàn tay khéo léo của các cô gái Thái biến những con cá xỉnh tươi ngon thành món "pa chen". Cá được rán qua một lần để nguội rồi rán lại lần nữa, lúc đó có thể tước cá thành bốn mảnh theo chiều dọc, chấm nước mắm giấm ớt với chút tiêu và tỏi thì vị thơm, ngọt, bùi, béo, cay, chua hài hòa trong miệng thấm dần đến tận cuống họng. Chưa hết, còn món "pa pinh" nữa: cá xỉnh mổ sạch ướp gừng, ớt, sả cặp vào cặp tre nướng trên than hồng, mỡ cá chảy ra vàng óng, thơm lừng quyến rũ, ăn nóng với xôi nếp Tú Lệ đến no mà không chán.

Vào những ngày nông nhàn, người Thái còn làm món "pa kho" cá xỉnh mổ sạch ướp hạt sẻn (một thứ hạt tiêu của người Thái cay và thơm) và ớt, sả, gừng. Hoa chuối thái mỏng ngâm sạch nhựa, trộn gia vị, bỏ cá vào giữa bọc nộm hoa chuối chung quanh, sau đó cho tất cả vào hai chiếc bẹ già của hoa chuối buộc lại đồ trên chõ. Mùi thơm nức của hạt sẻn quyện với mùi cá khiến thực khách không thể ngồi yên. Cá hấp xong, mang ra rắc vừng lạc giã nhỏ vào nộm và cá, bạn sẽ cảm nhận đầy đủ hương vị ẩm thực đặc trưng của xứ núi Tây Bắc.

Ngoài ra, "pa khính" còn được người Thái chế biến thành nhiều món ăn ngon khác như cá xỉnh (nấu với rau sắn muối chua (pa sủm) hoặc cá xỉnh kho ớt, sấy khô để dành (pa giảng).

Ruột cá xỉnh bám mỡ vàng óng, người Thái làm sạch, đem chưng với hành mỡ, tạo nên một thứ nước chấm đắng ngậy để chấm rau sống.

Đặc biệt là trong lễ ăn hỏi của người Thái không thể thiếu vài chục cá xỉnh sấy khô đựng trong những chiếc giỏ tre xinh xắn đan bằng sợi nan tre đã nhuộm đỏ.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
ẩm thực Lào cai

Rượu San Lùng

Truyền thuyết người Dao truyền tụng rằng rượu San Lùng là rượu của trời, của các đấng thiêntinh. Các vị Bồ Tát thường phái Tiên sa xuống núi Pò Sèn (ở Bản Xèo - bát Xát) lấy rượu về. Ấy là khi trời mưa, nắng, người ta thường thấy xuất hiện một chiếc cầu vồng như ba vòi nước hút từ dòng suối chảy ra từ lòng nùi Pò Sèn ngược lên trời. Người Dao đỏ gọi ba vòi nước đó là San Lùng, nghĩa là 'tam long' và địa danh ấy là San Lùng. Là vùng đất có rồng thiêng, nên đồng bào đến ở lập thành làng bản và sinh sống bằng nghề làm nương nấu rượu. Rượu San lùng là loại rượu quý chỉ để dùng cúng bái trời đất tổ tiên, lễ, tết, hội hè, cưới hỏi và để đãi bạn hiền.

Rượu San Lùng hương thơm, vị đậm đà mau làm lan toả sự đê mê tới lục phủ ngũ tạng, tới chân tơ kẽ tóc. Sau tiệc rượu, ta có cảm giác lâng lâng sảng khoái, không u mê đau đầu. Mới một giọt đã mềm môi, làm ta muốn thêm giọt nữa. Uống rượu San Lùng buổi sáng, sẽ như có vị thần sức mạnh hỗ trợ ở hai vai, nên làm lụng cả ngày không hề mệt mỏi. Nếu vào buổi tối uống cùng bạn, sẽ như có sợi dây vô hình ràng buộc tình yêu thương khăng khít, trong lòng mỗi người tào dâng lời hay ý đẹp nói lên những gì lúc khác chưa nói được.

Rượu San Lùng được chế biến rất công phu. Nguyên liệu tuyển chọn kỹ từ thóc nương vào sữa ở độ dẻo. Trước khi nâu, người ta ngâm thóc thành mộng và chưng ủ cùng cao lương thảo dược.Men đủ vị thảo dược của núi rừng, có vị phòng chống lạnh, trừ cảm,có vị làm cho lưu thông khí huyết, giảm đau nhức khớp, có vị làm cho không đau đầu. Rượu được chưng cách thuỷ hai lần, Lần thứ nhất là khử tap và lọc cốt. Lần thứ hai làm lạnh bằng những lá thơm của núi rừng với nước suối Pò Sèn, thế mới ra được rượu và chỉ có người San Lùng mới làm ra rượu San Lùng thơm, ngon, êm dịu.

Hiện nay người San Lùng Bát Xát đang là địa chỉ mà các bạn và du khách lên thăm Lào Cai muốn được thưởng thức và làm quà tặng người thân. Đó là loại rượu ngon có hạng từ thời Pháp thuộc

Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, người Nùng Dín lại mổ lợn đón Xuân. Dù lợn to hay bé, mỗi nhà cũng phải chuẩn bị thịt để chế biến nhiều món ăn trong ngày tết. Ngoài món thịt làm nhân bánh thì người Nùng Dín còn làm món thịt gừng (tiếng Nùng Dín gọi là Nứtsinh). Món ăn này rất bình dị, chế biến đơn giản nhưng có hương vị riêng, từ lâu là thức ăn quen thuộc của dân tộc này.

Để làm món thịt gừng, người Nùng Dín tận dụng tất cả các loại xương như xương sống, xương sườn và thủ tươi nguyên không được rửa qua nước đem băm nhỏ, rồi rửa một lượng khá nhiều gừng giã nhỏ vắt bớt nước. Sau đó, trộn tất cả xương băm, gừng, muối với nhau, bóp sao cho thật nhuyễn. Khi bóp người ta còn pha thêm một chút rượu vừa phải để bảo quản và giữ được sự tươi sống của thức ăn. Thịt được cho vào loại chum có men bóng rồi đổ nước (không để cạn nước ở vành chum), giữ nhiệt độ để tránh thức ăn chuyển màu. Sau đó, đậy kín miệng chum bằng tấm ni lông, buộc chặt, khi nào dùng mới lấy ra nấu chín tuỳ theo bữa. Người Nùng Dín thường ăn món thịt gừng theo hai cách là hấp hoặc nấu. Nếu hấp thì có thể cho thêm một chút nước, hạt tiêu, rau thơm thì món ăn sẽ toả mùi thơm hấp dẫn hơn nhiều. Nếu nấu thì đổ thêm một lượng nước tương xứng với lượng thức ăn đun chín tới, cho gia vị như mì chính, hạt tiêu hoặc rau cần tây. Kể cả người già hay trẻ nhỏ không ăn được xương thì trộn cơm với nước thịt này cũng xuýt xoa ngon miệng.

Ai đã từng thưởng thức món ăn Nứt sinh của người Nùng Dín sẽ không quên được hương vị của nó bởi vị ngọt của thịt xương quyện với cái mặn đậm đà của muối, chất cay nóng của gừng già, phảng phất vị thơm của rượu ngô.

Nưtsinh là một món ăn bình thường nhưng là món ăn chính của đồng bào trong mùa lao động khai xuân


Khách vào bản mua lợn, cứ ra ven rừng đuổi bắt được chú nào thì lấy chú ấy. Con to con bé đều bằng giá nhau, thế mới lạ chứ! Chủ nhà thủng thẳng: Lần sau khách vào nhà thì con bé đã thành con to rồi mà, to bé có khác gì nhau (!)...

Trong đời một người đàn ông có thể có rất nhiều những ngày giờ vui sống. Mà trong vô vàn các niềm vui ấy, chẳng có gì có thể làm ta sao lãng đi những bữa ấm cúng bên cạnh những tâm hồn tri kỷ lâu ngày hội ngộ. Và trong k‎ý ức hồn nhiên của những người đàn ông ham vui, sự chiều chuộng đãi đằng quanh bàn rượu là cả một bầu trời ấm áp.

Làm sao để bạn mình được sung sướng ngạc nhiên, làm sao để mà mình thấm cho hết tình sâu nghĩa nặng mà bạn dành cho. Đấy là một trong các l‎ý do để làm cho một ngành công nghiệp độc đáo luôn luôn phát triển dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy cũng có thể vượt qua. Ngành này vừa là công nghệ vừa là nghệ thuật, nó được dẫn dắt bởi những tâm hồn chân thực và được gọi tên một cách nôm na là ngành đặc sản bốn phương.

Những câu chuyện về đặc sản bốn phương thì người đàn ông nào cũng sẵn, và tiện đây xin cống hiến một câu chuyện nhỏ vào trong kho tàng văn hoá ẩm thực vô tận của muôn nhà.

Đấy là vào một buổi chiều muộn. Xe vừa tới cổng khách sạn, ba lô túi xắc chưa kịp khuân vào thì chuông đã reo. Mở máy ra, thấy số đầu 020, biết ngay là người gọi đang ở ngay đây, tức là Sapa. Kinh nghiệm đi xa cho tôi biết, chưa tới nơi mà đã có người đón gọi thế này là hên lắm đấy. Quả nhiên, mấy ông bạn lâu ngày không gặp, biết tin chiều nay tôi lên, đã chờ sẵn ở trên núi. Hôm nay họ sẽ đãi tôi một món đặc sản, lên đó rồi sẽ biết là món gì. Dẫu sao tôi cũng phải về phòng tắm táp qua loa cho sạch bụi trần. Cứ để người ngợm bụi bặm mà ngồi trong mây trắng Sapa thì thật là có tội với tạo hoá quá.

Ra khỏi cổng khách sạn thì trời đã mờ tối, lại càng may vì giờ này người bán vé đã nghỉ, cứ việc đi lên không mất tiền vé. Tôi như bơi trong biển mây mờ đục, nhắm theo những quầng ánh vàng xa xa của mấy ngọn đèn chìm trong bóng mây mà lần theo các bậc thang xếp đá đi lên. Chân đã bắt đầu thấy mỏi và đang ngơ ngác định hướng thì trời như chiều mình, lớp mây tự nhiên mỏng đi, hàng cây ven đường rõ dần ra. Không biết là mây đang lên cao hay đang hạ xuống. Có khi mây đang trôi ngang cũng nên. Ngẩng lên đã thấy ánh đèn lung linh chiếu ra từ trong ngôi nhà sàn sẫm tối đứng sừng sững ngay trước mặt.

Ngồi vào bên bếp lửa ấm, còn đang tíu tít chào hỏi và chưa cạn chén gặp mặt thì đã thấy thức ăn đưa ra. Món đầu tiên là gì nào. Năm bát tiết canh con con. Tôi đưa mắt nhìn, quanh bếp chỉ có ba người và tôi nữa là bốn, chắc còn một ông bạn nữa chưa tới. Thấy tôi chần chừ, một ông bạn giải thích rằng phần tôi hai bát. Đã coi là thân thiết thì khỏi khách sáo.

Chờ tôi ăn xong một bát, các bạn mới hỏi: - Đố ông biết đấy là tiết con gì? Tôi trả lời thật thà rằng tôi cũng đang tự hỏi như vậy. Đặc như thế này, chắc không phải tiết vịt rồi. *** cũng không phải mà trâu thì lại càng không vì tôi thấy những miếng gan bé tẹo nhưng mà lại chắc hơn cả gan ngỗng.

Hoá ra hôm nay các bạn chiêu đãi tôi món lợn Mường. Nguyên cả một chú, chỉ đánh được có đúng năm bát tiết bé xíu. Loài lợn này, bây giờ dân Sapa gọi là lợn cắp nách. Đi chợ mua về, hành hẹ rau cỏ xách nặng hai tay còn chú lợn chỉ cần kẹp vào nách cũng xong. Mỗi chú chừng 4-5 ký, bé hơn con cẩu. Dân từ bản xa mang lợn ra chợ thường buộc chân vào cái que tre, vắt ngang miệng gùi, đầu đuôi còn ngắn hơn bờ vai người đeo.

Cách đây không lâu, loài lợn này gần như tuyệt diệt vì không bán được, dân bản chả ai buồn nuôi nữa. Bỗng nhiên bây giờ lợn Mường lên ngôi, trở thành món đặc sản Sapa được du khách hâm mộ. Đến khi món thịt nướng củi đưa lên thì quả thật, tôi phải công nhận rằng, bất cứ món gì đã được dân sành điệu đánh giá đều đáng phải thưởng thức cả. Vừa ăn các bạn tôi vừa bình luận rằng, cái câu “sống ở trên đời ăn miếng dồi chó” bây giờ 'quê' rồi, dồi lợn Mường mới là cực kỳ.

Các khúc dồi đều tăm tắp, bằng đúng cái thân bút bi Thiên long. Tả chi li ra xem ngon miệng như thế nào thì rất khó, tốt nhất là ai mà đã lên đến Sapa, xin chớ quên tìm món lợn Mường mà tự thưởng thức. Vả lại trong hệ thống lý luận chặt chẽ của nghệ thuật ẩm thực thì hễ cứ hiếm, cứ lạ ắt phải là ngon.

Nhưng xin quý vị chú ý, kẻo ăn nhầm phải lợn Mường rởm. Vẫn là con lợn bé tẹo, đen thui, cái đuôi xoắn tít nhưng lại nuôi bằng cám bã, ngô gạo thì chả ra gì. Lợn Mường Sapa được thả rong ven rừng, ăn cỏ dại, dũi củ rừng mà sống. Cả năm chả thấy lớn nhưng được cái chả tốn ngô sắn công sức gì cả.

Khách vào bản mua lợn, cứ ra ven rừng đuổi bắt được chú nào thì lấy chú ấy. Con to con bé đều bằng giá nhau, thế mới lạ chứ! Chủ nhà thủng thẳng: Lần sau khách vào nhà thì con bé đã thành con to rồi mà, to bé có khác gì nhau (!).

Chuyện này là do anh chàng đầu bếp vui tính kể lại chứ thú thật, tôi đã bao giờ được vào bản bắt lợn đâu. Vừa ăn vừa nghĩ đến một giấc mơ không tưởng, mơ rằng phải chi có được những ngày thanh thản để mà sống hồn nhiên, để mà còn có thì giờ rủ nhau kéo vào bản xa theo chân mấy cô gái miền sơn cước đuổi bắt lợn trong rừng. Thần Jupiter ngày xưa trên Olympic mà nghe thấy chắc cũng phát thèm.

Mây lạnh tràn vào quanh bếp lửa, mang theo hương rừng đêm ngan ngát. Tôi bỗng nhớ, mình đang ngồi giữa trập trùng núi rừng. Trước kia rừng phủ khắp nơi, người ta đã từng ăn thịt lợn rừng quanh năm. Rồi khi biết cách chăn nuôi, các con lợn nhà được quý trọng và coi là đặc sản, chỉ có người nghèo mới phải ăn lợn rừng. Giống lợn nhà ở Sapa ngày xưa còi cọc vì đến cả người còn không đủ ngô sắn mà ăn, lợn phải tự tìm rau dại, củ rừng gần như là lợn rừng vậy, chỉ những khi thiếu thốn người ta mới nhớ đến chúng.

Khoa học phát triển, lợn lai kinh tế béo mượt, trắng nõn lên ngôi. Đã có lúc người sành ăn đi lùng bằng được miếng thịt lợn lai kinh tế có lớp mỡ dày cộm để đãi bạn nhậu, và những người vẫn còn phải ăn lợn ta đen xì thì nhìn họ một cách ngưỡng mộ. Khắp nơi người ta tìm lợn lai về nuôi. Đã có những ngày không ở đâu có thể thấy bóng những con lợn ta lưng võng da nhăn đen xỉn, chứ đừng nói đến loài lợn Mường còi cọc.

Nhai mãi cái thứ thịt công nghiệp nhàn nhạt, mềm như bông ấy, người ta lại thấy chán. Các bà sành nội trợ thì quay ra tìm lợn ta mới mua, còn dân ham của lạ đi lùng thịt lợn rừng. Cách đây chưa lâu, cái mốt lợn rừng vẫn còn là đặc sản cao cấp và chẳng được mấy năm thì đến giờ, lợn rừng hầu như tuyệt chủng.

Dẫu sao vẫn phải có thứ gì quý hiếm để mà nhâm nhi chứ, và trong tình thế hiện nay, Sapa đã nhớ lại nhữmg con lợn còi còn sót lại và đã nhanh chóng cống hiến cho văn hoá ẩm thực nước nhà một đặc sản đậm đà bản sắc địa phương: lợn Mường cắp nách được thả rông trong rừng ôn đới lạnh giá ở độ cao hơn 2000 mét trên mực nước biển!
Lợn Mường thực sự thả hoang trong rừng đã rất hiếm vì bây giờ chả còn mấy bản làng ở được gần rừng, mà lại trong rừng tít trên núi cao thì lại càng hiếm lắm. Với các tiêu chuẩn này thì đặc sản lợn Mường Sapa có lẽ còn khó kiếm hơn cả lợn rừng cũng nên.
Món này có thể gọi là thịt rừng nhưng lại không phải là thịt rừng. Trong miếng thịt cảm được cả hương vị của rừng hoang mà lại không 'mắc tội' tiêu diệt động vật hoang dã, thật là tuyệt vời. Nhưng có lẽ chỉ khi được ngồi giữa mây núi Sapa, bên bếp lửa hồng với bầu rượu ngô cùng những người bạn hiền thì mới thấy hết cái tinh khôi của rừng tích tụ trong mỗi miếng ăn này. Lòng tôi thầm cảm tạ nhân duyên của Đất Trời đêm nay.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Ẩm thực Hạ Long - Quảng Ninh

Chả mực

Vùng biển Quảng Ninh có nhiều loại mực: Mực nang, Mực ống, Mực sim. Mực ống thì thường được xẻ ra phơi khôi và chúng ta mua về nướng ăn chấm với tương ớt hoặc wasabi với Xì dầu. Ngon hết sảy. Còn Mực nang và Mực sim thường xào hoặc luộc với nước me, hoặc lá ổi chấm với nước mắm gừng thì cũng ngất ngây. Đặc biệt Mực nang còn dùng để làm chả mực rất ngon.

Cách chế biến chả mực đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm. Từ việc lựa chọn mực, "giải phẫu" bỏ phần ruột và bọng mực, lớp da ngoài cho đến việc nêm gia vị, giã hoặc xay và cách rán. Chả mực khi mới rán xong có màu vàng ruộm, phồng đều và mùi thơm nức mũi, vị đậm đà ăn với bánh cuốn hoặc xôi trắng rất ngon.

Ở thành phố Hạ Long có dãy phố chuyên làm chả mực bánh cuốn ở gần rạp Bạch Đằng cũ nay là phố Thương Mại và Cây Tháp. Nhưng nhiều người quen gọi là phố "Chả Mực bánh cuốn".

Cà Sáy Tiên Yên

Cà sáy là một con được lai giữa hai con là Con Vịt và Con Ngan. Giống Vịt lai Ngan này được người dân địa phương thuần chủng và nuôi tại đây từ lâu đời. Người Tiên Yên làm thịt Cà Sáy và chế biến món nước mắm chuyên dùng thì hết chỗ chê, Một thứ nước chấm có vị thơm của nước mắm Cái Rồng, Vạn Yên lại có vị ngọt ngào nồng ngậy của xá xị Quảng Tây cùng với vị cay dịu của gừng Tiên Yên trồng trên đắt quê nhà.

Thịt Cà sáy không phải thịt Vịt cũng chẳng phải thịt Ngan nhưng hương vị lại có của cả hai và qua bàn tay của người Tiên Yên chế biến thì lại ngon lên gấp bội lần.
Trước đây khi dịch cúm gà chưa xuất hiện. Thì Hạ Long cũng có rất nhiều quán mở ra. Nhưng mà khổ thân cho mọi người và may mắn cho lũ Cà Sáy. Bây giờ số lượng quán không còn nữa rồi, Muốn thưởng thức chỉ còn cách bạn đến Tiên Yên thôi

Rượu ngán Hạ Long
Rượu có mùi thơm rất riêng của biển. Quý khách có thể tự tay điều chế. Một ly rượu ngán chuẩn phải có mầu hồng, vị mằn mặn, hơi chát, có mùi rất thơm thì mới đúng là rượu ngán Hạ Long. Uống rượu ngán và thưởng thức các món ăn hải sản rất hợp.

Rượu nếp ngâm Hoành Bồ
Rượu được chế tạo từ gạo nếp đặc sản của địa phương. Gạp nếp không giã, được nấu chín đưa vào ủ . Khi đã lên men và đến độ ngấm thì người ta cho vào ngâm với thứ men lá lấy từ trong rừng Hoành Bồ, sau một thời gian chuyển thành rượu, rượu được chắt ra đựng vào lọ, hũ để uống dần, mỗi bữa một vài chén. Khi có khách thì mang cả hũ ra đãi khách. Rượu nếp ngâm Hoành Bồ có vị chua, ngòn ngọt, có tác dụng kích thích tiêu hoá, giải khát rất tốt, nhất là vào mùa hè.

Nem chua và canh hà Quảng Yên
Nem chua Quảng Yên có thể sánh cùng nem chạo Thanh Hoá xong mỗi nơi lại có hương vị riêng. Còn canh hà Quảng Yên thì không đâu có, đặc biệt là giống hà cồn sống ở vùng sông Chanh. Ðây là dòng sông của biển, có sự giao hoà giữa nước ngọt từ vùng đồng bằng ra hoà với nước mặn của biển Hạ Long. Hà sông Chanh đem nấu canh chua ăn rất ngon và có cả bốn mùa, nhưng thú vị nhất vẫn là được ăn vào những ngày hè nóng bức.

Tôm hấp
Biển Quảng Ninh có nhiều loại tôm: tôm he, tôm hùm, tôm do, tôm sắt ... nhưng quí nhất vẫn là tôm he, tôm hùm. tôm hùm có vỏ cứng, đôi càng to khoẻ trông rất dữ tợn, bởi vậy có tên là tôm hùm (chúa tể của các loài tôm). Vỏ tôm hùm thường làm vật trang trí trong các khách sạn, nhà hàng, trong các gia định ngư dân vùng biển Hạ Long. Còn tôm he có vỏ mềm hơn thường được dùng làm đặc sản trong các bữa tiệc. Có hai cách chế biến tôm he đó là tôm hấp và tôm tẩm bột rán, nhưng tôm hấp được ưa chuộng bởi vẫn giữ được hưng vị đậm đà của biển. tôm he khi còn sống có màu xanh, cái mác trên đầu tôm rất sắc và nhọn. khi đem ché biến người ta phi bắt tôm rất cẩn thận, x nước sạch rồi hấp sao cho càng tôm không bị rụng. tôm hấp chín chuyển sang màu hồng. tôm hấp ăn với hành trần, rau thơm, chấm với muối tiêu hoặc nước mắm Ðại Yên, Cái Rồng, có nêm ớt. Trên bàn tiệc có đĩa tôm hấp màu hồng, bên cạnh có đĩa hành trần củ trắng tinh, dọc hành và rau thơm màu xanh lại có bát nước mắm với ớt màu đỏ tạo nên một bức tranh tĩnh vật trông thật đẹp mắt và hấp dẫn. khi ăn tôm hấp, người ta phi bóc vỏ đầu tôm trước. Ðầu tôm có lớp gạch màu vàng sánh ăn rất ngậy. Nếu ai không ăn được chất béo thì không nên ăn gạch tôm bởi sau đó không muốn ăn các thứ khác. Nhưng nếu không sợ chất béo thì ăn gạch tôm sẽ rất ngon đó phụ thuộc vào sở thích của mỗi người. tôm hấp khi bóc hết vỏ, thịt tôm trắng hồng, từng thớ chắc nịch, nhìn thấy đã muốn ăn. tôm hấp ăn cùng gia vị hành trần, rau thơm, chấm với muối tiêu hoặc mắm ớt là món ăn vừa ngon vừa bổ. Nếu được chế biến hoặc, sắp đặt khéo léo trên bàn tiệc, món tôm hấp trở thành món ăn có giá trị dinh dưỡng và giá trị thẩm mỹ cao. Bởi vậy tôm hấp được liệt hạng là đệ nhất đặc sản biển Hạ Long.

Sái sùng rang mồi sào
Ở vùng biển Quảng Ninh có loại hải sản đặc biệt, được gọi là sái sùng (hay sá sùng), tiếng Hán Việt gọi là sá trùng (con sâu cát), dân địa phương gọi là con mồi. Xứ sở của sá sùng là vùng bờ biển huyển đo Vân hi, nhất là các xã Minh Châu, Quan Lạn. Sái sùng sống trong các bãi cát có nước triều lên xuống.
Khi nước triều xuống, người dân địa phương ra đào. người đào sái sùng đòi hỏi có kinh nghiệm, có kỹ thuật, động tác điệu nghệ như người nghệ sỹ múa trên cát. Sái sùng đào được đem xào với tỏi tưi ăn rất ngon, một món ăn dân dã đặc sắc mà người dân vùng biển Hạ Long gọi là mồi xào. sái sùng kh" đem rang, khi chín có mầu vàng, mùi rất thơm, một hưng thơm nồng ngậy đậm đà của biển. Sái sùng rang chấm với tưng ớt, điểm thêm rau dấp cá, rau thơm và uống với bia thì thật là tuyệt.

Ốc xào tương ớt
Biển Hạ Long có nhiều loại ốc: ốc đĩa, ốc tù và, ốc tai tượng. Mỗi loại ốc có cách chế biến riêng, có vị ngon riêng. Nhưng món ốc xào tương ớt vẫn hấp dẫn hơn cả được các giới đều ưa chuộng, từ người già đến phụ nữ trẻ em cho đến những tay sành điệu ăn nhậu. ốc đĩa nhỏ con mình dẹp nên gọi là ốc đĩa. ốc đĩa được rửa sạch cho vào nồi không cho nước, nêm tưng ớt rồi đem đun sôi. Gọi là xào nhưng không cho mỡ, chỉ rắc thêm lá chanh thái nhỏ. ốc xào bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nồng đượm, ốc mầu hồng điểm chấm đỏ, chấm vàng trắng thật đẹp mắt. ốc đĩa xào ăn giòn, ngậy, cay cay, điểm thêm hưng vị của dấp cá, lá thơm, càng thêm hấp dẫn. ốc đĩa thường dùng để ăn chơi, uống với bia rất hợp.

Chả mực bánh cuốn
Trên khắp dọc bờ biển Việt Nam, nơi nào cũng có mực. Mực Nha Trang nổi tiếng là to, mực Hạ Long nổi tiếng là ngon bởi môi trường sống của nó. Biển Quảng Ninh có nhiều loại mực: mực rang, mực ống, mực sim.
Mực ống thường phi khô đem nướng ăn. còn mực sim, mực nang thì xào. Ðặc biệt mực nang còn dùng làm chả mực rất ngon. Cách chế biến chả mực đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm. Từ phần chọn mực đến phần 'giải phẫu' bỏ phần ruột và bọng mực, lớp da bên ngoài cho đến việc nêm gia vị, cách giã, cách rán. Chả mực khi rán xong có mầu vàng ruộm, mùi thơm nức, vị đậm đà ăn với bánh cuốn hoặc xôi rất ngon. ở thành phố Hạ Long có dãy phố chuyên làm chả mực, bánh cuốn ở rạp Bạch Ðằng đã trở nên quen thuộc. Nhiều người gọi là phố " Chả mực bánh cuốn ".
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Đặc sản của tỉnh Bình Định

ái ăn Bình Định qua những câu ca xưa

Sống trong phong cảnh sơn thủy hữu tình, sông chảy, núi cao, biển dào dạt sóng vỗ, con người Bình Định chẳng dám sánh với người Kinh Đô thanh lịch “ăn Bắc, mặc Kinh”. Nhưng với vốn đặc sản của riêng mình cũng đủ cho người dân ở đây tự hào.

Người Bình Định có biệt tài làm bánh ít lá gai. Ai đã từng thưởng thức bánh ít Bình Định thì khó quên cái dẻo dai, ngon ngọt của nó. Thế mới có câu ca:

“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi”


Ngoài bánh ít lá gai còn có bánh ít nhân tôm, bánh ít nhân mè nữa. Mỗi thứ với cách thức chế biến riêng, bằng những kinh nghiệm riêng đã tạo nên cái ngon miệng.

“Muốn ăn bánh ít nhân mè
Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm
Muốn ăn bánh ít nhân tôm
Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.”


Chẳng những thế mà trên mảnh đất của người Chàm xưa, còn lại nhiều di tích Chàm, người dân cũng thật thà đặt tên cho một ngọn tháp là tháp Bánh Ít.

“Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Sông xanh núi cũng xanh rì
Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này.”


Liên quan đến tháp Chàm và đặc sản của Bình Định phải nói đến nem chợ Huyện –Tuy Phước.
“Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.”


Người Bình Định rất có lý khi đặt nem chợ Huyện bên cạnh Tháp Chàm. Điều đó nói rằng: nem chợ Huyện là đặc sản “có cỡ”. Vào quán, gọi món nem chua nhâm nhi chút rượu chờ tiếp món nem nướng để thưởng thức. Và một lần như thế, bạn sẽ không bao giờ quên.

Bình Định có dừa Tam Quan nổi tiếng. Những hàng dừa râm mát, những cô gái ở đây da trắng nõn nà vì không một giọt nắng nào vươn đến. Nhiều cô gái đẹp lạ lùng:

“Tam Quan ít mít nhiều dừa
Nhiều cô gái đẹp mà chưa có chồng.”


Và các cô cũng đa tình không kém, dám chấp nhận cả cho tình yêu:

“Tam Quan ngọt nước dừa xiêm
Cha từ, mẹ bỏ vẫn tìm theo anh.”


Dừa cho nhiều sản phẩm. Và những thi tứ cũng khởi nguồn từ đây:

“Cạo dừa, đạp cám cho nhanh
Ép dầu mà chải tóc anh, tóc nàng.”


Bình Định cạnh biển Đông, có đầm Thị Nại, cá tôm phong phú. Câu ca vùng này đã nói:

“Cá nục gai bằng hai ca nục vọng
Vợ chồng nghĩa trọng
Nhơn nghĩa tình thâm
Xa nhau muôn dặm cũng tầm
Gặp nhau hớn hở tay cầm lời trao.”


Nghề làm nước mắm cũng theo đó mà phát triển. Tuy không như nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết...nhưng nước mắm Vạn Gò Bồi cũng mặn mà không kém:

“Gò Bồi có nước mắm thơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.”


“Nước mắm Gò Bồi, trã nồi An Thái”, đó chính là hai đặc sản mà nhân dân so sánh với nhau. Chính nước mắm Gò Bồi đã làm nên cái duyên mặn mà, kết nguyền tình nghĩa của các đôi nam nữ:

“Ai về dưới Vạn Gò Bồi
Bán mắm, bán cá lần hồi thăm em.”


Xuân Diệu khi hồi tưởng nhớ về quê ngoại không thể nào quên được:

“Ôi, tôi mang sẵn cất sâu thay
Từ lúc má tôi đẻ tôi ra ở Vạn Gò Bồi làm nước mắm
Một hạt muối trong tim dể mặn với tất cả những gì đằm thắm...”


Tình nghĩa người miền ngược với người miền xuôi càng thêm thắt chặt qua những sản phẩm của biển cả, đầm hồ này:

“Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.”


Đó là những cái ăn, dẫu không bằng “ăn Bắc, mặc Kinh” nhưng cũng lắm điều thú vị, phong phú mà ở đây không thể kể ra hết.

Nếu ở Hoài Nhơn có dừa Tam Quan thì đi vào Phù Mỹ lại có nhiều thứ khác. Đó là chè tươi:

“Anh về Phù Mỹ nhắn nhe
Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên?
Anh về dưới vạn thăm nhà
Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long.”


Đó là tôm, tép:

“Rủ nhau mua tép Trà Ô
Sẵn bờ cát trắng phơi khô đem về...”


Đến Tuy Phước, bạn chẳng những thưởng thức nem chợ Huyện, nước mắm Vạn Gò Bồi, mà cả dưa Luật Lễ nữa chứ:

“Muốn về Luật Lễ ăn dưa
Sợ e nước lớn đò đưa không đều.”


Thật là vô vàn. Vì thế mà ca dao Bình Định đã khuyên:

“Muốn ăn đi xuống
Muốn uống đi lên
Dạo khắp bốn bên
Chợ Thành, chợ Giã
Chợ Dinh bán chả
Chợ Huyện bán nem...”


Quả thật là thế. Núi rừng Tây Sơn cũng có sản vật ngon để khoe với các vùng khác. Chẳng hạn, chà viên là thức trái cây ngon lành ở đây:
“Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
Chà viên Bình Định vừa ngon, vừa lành
Chín muồi da vẫn tươi xanh
Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.”


Và nhất là bắp nếp chín vàng của vùng đất này làm bồi hồi những ai đi xa.

“Ta về ta nhớ Bến Giang
Nhớ soi bắp nếp chín vàng bên sông.”


Quê hương Bình Định lắm sản vật, bốn mùa hoa quả, cây trái ngọt lành, trù phú vật chất nên con người Bình Định xưa cũng phong phú về tinh thần. Và đất lành chim đậu...
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon Quảng Nam

Mì Quảng
"Thương nhau múc chén chè xanh, làm tô mì Quảng để anh ăn cùng".
Mì Quảng là món ăn bình dân, mộc mạc, vì thế cách chế biến cũng khá đơn giản. Gạo ngon sau khi đem ngâm, xay thật mịn rồi tráng để có những lá mì mềm mướt, trắng nõn. Sau khi tráng một lớp dầu phộng đã khử chín lên lá mì, gấp lại rồi xắt thành từng cọng như cọng phở. Vậy là xong bước chuẩn bị mì.
Rau ăn mì khá phong phú, thường là rau muống, búp chuối, thân cây chuối non xắt mỏng, các loại rau thơm... Nước nhưng (nước lèo) thì tùy gia chủ giàu hay nghèo, giàu thì làm tôm thịt, gà, cua, cá... nghèo thì vài con cá nục cũng có thể nấu được tô nước nhưng thơm ngon.
Ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng nướng giòn là giảm đi ý vị. Có người cứ để nguyên nửa cái bánh tráng rồi cắn một miếng, lùa một đũa mì. Có người bóp bánh nhỏ ra, dùng đũa trộn đều, thêm tí ớt là vừa ăn vừa hít hà. Khác với ăn phở hay ăn bún bò, ăn mì Quảng phải ăn nhanh và càng đông người ăn càng ngon miệng, cách ăn ấy bộc lộ một phần cá tính của người Quảng là bình dị và có tính cộng đồng cao.
Nếu ở Quảng Nam, TP Đà Nẵng cọng mì thường màu trắng thì ở Quảng Ngãi, người ta thường thêm vào mì ít nghệ nên mì có màu vàng trông cũng khá hấp dẫn.
Ăn mì Quảng thì mỗi nơi mỗi khác, khác là khác ở rau và nước nhưng, ở Quảng Nam tại vùng Điện Bàn, Núi Thành thì thường có mì nước nhưng tôm, vùng Túy Loan thuộc huyện Hòa Vang có món mì gà, vùng Ái Nghĩa (Đại Lộc), Tiên Phước thì có món mì cá lóc, cá nục... Vì thế có nhiều vị khách sau khi ăn tô mì lại thốt lên sao ăn mì Quảng chỗ này thấy ngon, sao chỗ kia thấy lạ, chỗ nọ thấy kỳ kỳ, và đó cũng là cái thú vị khi thưởng thức món mì Quảng trên khắp xứ Quảng.
Nếu ở TP.HCM, bạn có thể thưởng thức hương vị của món mì Quảng tại khu Bàu Cát, quận Tân Bình hay tại các quán ăn miền Trung.

Nước mắm Nam Ô:
Khác với những vùng làm nước mắm khác ở Việt Nam, làng đánh cá Nam Ô, Đà Nẵng chỉ chế biến nước mắm từ cá cơm than. Muối cá từ khoảng tháng ba âm lịch bằng thứ muối Cà Ná hạt to để đã vài năm, gần Tết Nguyên đán thì dùng được. Nước mắm Nam Ô có mầu đỏ sậm, tỏa mùi thơm đầy hấp dẫn.
Nam Ô là làng đánh cá nhỏ bé, nằm ngay trên quốc lộ số 1, Đà Nẵng, làng có loại nước nắm ngon nổi tiếng. Loại cá làm nước mắm Nam Ô ngon nhất là cá cơm than đánh bắt vào tháng ba. Nước mắm Nam Ô ngon một phần là nhờ chọn thứ muối Cà Ná hạt to để lâu vài ba năm. Muối mang về đổ trên nền xi-măng sạch, khô ráo, để từ năm đến bảy ngày cho chảy hết chất nước đắng, sau đó cho vào chum, vại cất vài năm trớc khi đem làm.
Cá cơm than được lựa chọn kỹ là loại cá tươi, không to quá hoặc nhỏ quá. Khi muối, không cần rửa lại, vì trước khi lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Nếu rửa bằng nước ngọt sẽ làm cá mất ngon. Những thùng, chum, vại muối phải làm bằng gỗ bằng lăng hoặc gỗ mít, mới đúng cách. Cá muối vào tháng ba, gần Tết âm lịch bắt đầu lọc mắm, nhẹ tay lấy vỉ chèn ra, trộn đều mắm và dùng vải mịn để lọc mắm. Nước mắm chảy từ từ, có mầu đỏ sậm như mầu cánh gián, mùi thơm tỏa ra đầy hấp dẫn.
Từ xa xưa, nước mắm Nam Ô đã rất nổi danh. Ngày Tết, ngày lễ, người dân trong cũng như ngoài tỉnh ai cũng muốn có chai nước mắm Nam Ô.

Bánh khô mè Cẩm Lệ:
Như bao loại bánh truyền thống - bánh khô, bánh tổ, bánh tét, bánh đa... - khô mè được chế biến từ nguyên liệu của bột gạo - nếp, mè, đường. Ở Quảng Nam, cùng với xôi ngọt, khô mè là chút quà được mua về trong những dịp giỗ chạp, lễ Tết ngày trước.
Có hai loại bánh: khô nổ và khô mè. Chất liệu nền giống nhau: bột gạo nếp, chỉ khác chiếc áo bên ngoài, khô nổ được áo với bột nếp, khô mè phủ quanh là mè, gần giống mè xững Huế. Thực ra khô mè chỉ là bước cải tiến của khô nổ, nhờ thế mới có thể vượt đèo Hải Vân để ra bắc, rời dốc Sỏi để vào nam.
Thành công của bánh khô mè Cẩm Lệ có công của một phụ nữ chân quê: bà Liễu, ở đầu cầu Cẩm Lệ, Khuê Trung, Đà Nẵng. Bà Liễu tên thật là Huỳnh Thị Diểu. Bà sinh ra trong một gia đình làm khô mè bên đầu cầu Cẩm Lệ, không bằng lòng với những thành công ban đầu, bà cố gắng cải tiến hình thức bao bì để nâng cao thế mạnh sản phẩm, một mặt hàng hoàn toàn mang tính thủ công.

Cá chuồn và mít non xứ Quảng:
Ngoài món mì Quảng nổi tiếng, xứ Quảng còn có một món ăn độc đáo mà có lẽ không người Quảng nào lại không ưa thích: đó là cá chuồn và mít non. Khi nhìn vào mâm cơm xuất hiện đia cá chuồn là biết mùa hè đang tới. Vào mùa này, các chợ xứ Quảng tràn ngập cá chuồn. Cá chuồn có thể ăn tươi hay phơi khô, vừa ngon, vừa rẻ. Hình dáng cá thuôn dài, lưng xanh, bụng trắng và dễ nhận nhất là nó có cặp cánh dài tới đuôi. Cá chuồn xanh tươi trên lưng có sọc vàng nhỏ xòe cánh, trong có những hình rẻ quạt vàng rực, loại này nhỏ nhưng thơm và béo hơn cá chuồn cổ.
Món canh chua cá chuồn không thua gì cá bông lau nấu chua miền nam. Nhưng ngon nhất vẫn là món cá chuồn chiên. Sau khi làm sạch, xẻ dài cá theo sống lưng, dần xương sống cho mềm, gấp cá lại. Hành, tỏi, ớt, nghệ giã nhỏ trộn chung với nước mắm ngon quết đều vào bụng cá. Gấp đôi, chiên vàng, mùi thơm của nó lan tỏa khắp nơi. Nhưng dộc dáo vẫn là món cá chuồn kho mít non, chả thế mà người dân Quảng dặn dò nhau:

Ai lên nhắn nẩu trên nguồn
Mít non đem xuống cá chuồn đem lên

Bánh tráng cuốn thịt heo:
Món ăn dân dã này làm rất đơn giản. Nguyên liệu gồm có: thịt heo (loại mông sấn) luộc chín, mì ướt (bánh cuốn tráng dày lên khoảng 3,4 lần) và bánh tráng mỏng (bánh đa nem) cùng với chuối xanh, khế thái lát. Thái thịt phải thật khéo, thật mỏng, dài khoảng gang tay, nạc ở giữa, hai đầu của miếng thịt là mỡ lại có cả bì. Thịt được cuốn cùng bánh tráng với mì ướt, khế, chuối xanh, rồi chấm mắm nêm. Món mắm đặc biệt được pha chế theo bí quyết riêng của người dân Đà Nẵng. Khi cuốn xong bạn được thưởng thức món bánh tráng thật mềm, có vị ngọt của thịt, vị chát của chuối, vị chua của khế và hương vị đậm đà không thể quên của mắm nêm. Món ăn kèm theo còn có bánh đa vừng nướng thơm lừng, ăn vừa béo, vừa bùi...

Một trong những người có công khôi phục món ăn này ở Đà Nẵng, sau một thời gian dài bị lãng quên là gia đình ông Mậu. Khoảng mười năm trở lại đây, khắp thành phố Đà Nẵng mọc lên rất nhiều quán bánh tráng cuốn thịt heo. Nhưng thực khách sành ăn thường kéo nhau đến Khuê Trung, một phường nhỏ, cách thành phố 6 km để thưởng thức món này. Chủ quán khoe: "Có ngày quán của tôi không làm kịp vì khách ăn tới cả trăm người". Thú vị nhất là các vị khách nước ngoài, lúc đầu họ còn ngần ngại món mắm nêm, nhưng sau đó thì "mê" dần và sành ăn chả kém gì dân bản địa. Dưới những tán lá xanh rợp mát trong vườn, bên những người thân, bạn bè, khách quý từ xa đến ai cũng thích thưởng thức bánh tráng cuốn thịt heo, ngon, rẻ, đậm đà hương vị miền trung.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Món ngon Tây Ninh - Chỉ có Bánh canh

Bánh canh Trảng Bàng - đặc sản ẩm thực Tây Ninh

Huyện Trảng Bàng, Tây Ninh là một trong những địa phương có nhiều làng nghề, phố nghề thủ công truyền thống. Nổi tiếng nhất vẫn là bánh canh Trảng Bàng với nhiều lò bánh thủ công gắn liền với các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Trên tuyến TP. Hồ Chí Minh - Tây Ninh, bánh canh Trảng Bàng đã trở thành một sản phẩm du lịch, một điểm dừng chân thân thuộc đối với khách du lịch.

Bánh canh Trảng Bàng trở nên nổi tiếng nhờ tên gọi dễ nhớ bởi nó gắn liền với tên hành chính địa phương. Chính nhờ sự cạnh tranh gay gắt giữa các lò bánh ở địa phương nên những huyền thoại về bánh canh Trảng Bàng không những không bị mai một mà ngày càng ngon hơn và hấp dẫn hơn, quen thuộc hơn. Mỗi lò đều cố gắng thu hút du khách bằng bí quyết riêng của mình trong từng con bánh, từng loại gia vị và cách pha chế gia truyền của mỗi lò. Để có bánh canh Trảng Bàng phải qua công đoạn làm bánh canh rất công phu. Đầu tiên bánh canh phải được làm bằng một loại gạo quý, đắt tiền như Nàng Thơm (Chợ Đào). Gạo phải được ngâm thật kỹ qua một đêm để hạt gạo đạt đủ độ mềm cần thiết. Sau khi ngâm, gạo được đem xay nhuyễn để lấy tinh bột. Công đoạn cuối cùng là tinh bột được đem hấp chín trước khi ép thành những con bánh canh trắng muốt. Điều đặc biệt dễ nhận thấy ở làng nghề Trảng Bàng này là các lò làm bánh hoạt động rất nhịp nhàng, ăn khớp với các tiệm ăn. Bột bánh canh được giao tới tiệm ăn rất đúng giờ, đúng buổi không quá sớm và cũng không quá trễ, tránh trường hợp con bánh bị chua, mất đi hương vị độc đáo.

Mỗi tô bánh canh khi được bày lên bàn cho thực khách phải đảm bảo cả về chất lượng lẫn mỹ thuật. Tô bánh canh bốc khói với vị cay của ớt, tiêu, sau khi đã dùng qua, ắt hẳn khó ai có thể quên được vị béo ngọt của thịt, vị thơm, dai nhưng mềm của bánh cộng với vị chua của nước mắm.

Phố nghề, làng nghề truyền thống bánh canh Trảng Bàng đang là những thông tin cho du khách nước ngoài muốn tìm hiểu về giá trị văn hóa ẩm thực Việt Nam, sự khác nhau của hương vị 3 miền đất nước Bắc Trung Nam. Bánh canh Trảng Bàng đã trở thành một điểm dừng chân quen thuộc của xe du lịch trên quốc lộ 22.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Tới Tiền Giang - Ăn Hủ tiếu Mỹ tho ngon bá cháy

Hủ tiếu Mỹ Tho - Tiền Giang

Hủ tiếu Mỹ Tho khác với hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò Huế... ở chỗ không ăn với xà lách, giấm, rau ghém, mà dùng giá sống, chanh, ớt, nước tương. Ðiều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều người "bén mùi" kể từ thập niên sáu mươi nhờ sự hoàn thiện từ khâu chọn hột gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký... cùng các lớp thợ nấu sau này.

Nhiều người cho biết, hủ tiếu ngon nhất phải là loại làm bằng gạo Gò Cát (đặc sản như tàu hương, nàng thơm chợ Ðào). Ðây là vùng trồng lúa thơm địa phương của xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho. Cũng cần nói thêm, gạo Gò Cát làm bún, bánh tráng, bánh nghệ nức tiếng ở Mỹ Tho hơn 40 năm nay. Nhưng hủ tiếu ngon phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước sôi, tươm mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt.Lúc trước hủ tiếu Mỹ Tho ngoài thịt, lòng còn có con tôm chẻ đôi bày trên mặt, trông ngon mắt. Giờ để giá thành hợp túi tiền của số đông, người ta thay bằng sườn, cặp trứng cút.

Ngón gia truyền không ai chịu hé răng. Hơn kém nhau còn tuỳ thuộc vào nồi nước lèo. Về cơ bản, chất ngọt của nước lèo từ xương ống hầm kỹ, thịt và khô mực nướng, cùng một số nguyên liệu, gia vị đặc trưng, được các đầu bếp gia giảm theo khẩu vị khách hàng của mình. Mỗi lần mở nồi hầm chan bánh, hương thơm ngào ngạt mời gọi khách làm nhiều người qua đường cầm lòng không đậu. Vì vậy, dù hàng quán khu vực Cầu Quay (Mỹ Tho) tuềnh toàng, thực khách vẫn cứ nườm nượp. Thậm chí, trong cẩm nang của nhiều hãng du lịch lữ hành quốc tế giới thiệu hẳn tên những hiệu ăn nổi tiếng của nơi đây.

Hủ tiếu Mỹ Tho là món ăn đặc sản đậm đà tính dân tộc luôn gợi nhớ đối với những ai đã từng tri âm tri kỷ với đất Mỹ Tho. Thật hiếm có món ăn nào làm theo cách thức của người dân Nam bộ lại vừa miệng cả giới Tây, Tàu.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Nam định: Bánh gai Bà Thi Số 1 Việt Nam

Ai đã về thành phố Nam Định hẳn không thể quên được "Bánh Gai Bà Thi" - một thứ bánh đã trở nên quen thuộc nơi thành phố Dệt này...

Bánh gai Nam Định đã có từ lâu lắm, nhưng bánh gai bà Thi thì chỉ mới xuất hiện từ năm 1978. Người ta vẫn nhớ những ngày đầu trên đường Trần Hưng Đạo về phía nhà kho bạc xuất hiện một hàng bánh gai, có một phụ nữ đứng tuổi, đẫy đà, nét mặt phúc hậu. xếp những chiếc khay nhôm trong một đôi quang gánh bằng mây vui vẻ bán hàng.. Đó chính là bà Thi, người Nam Định ở trong Nam ra. Bà đón tiếp khách rất niềm nở. Hẳn những người đã ăn bánh nơi đây vẫn còn nhớ cách bà hướng dẫn bóc bánh sao cho khỏi dính lá, cách ăn bánh sao cho khỏi rơi nhân. Có người nghiện bánh của bà đến nỗi ngày nào cũng ra ăn một, hai chiếc. Bà Thi không làm bánh mà mua tại cơ sở sản xuất của anh Bình “xoăn” ở phố chợ Hoàng Ngân. Bây giờ người con của bà ở 112 Trần Hưng Đạo – sau khi bà mất vẫn tiếp tục lấy bánh để bán chứ không sản xuất. Nguyên liệu làm bánh gồm: lá gai, bột gạo nếp, đỗ xanh, dừa ,thịt mỡ. Những ai về Nam Định, hãy ghé qua nơi đây một lần.

Lá gai có thể nhiều nơi trồng, nhưng lá gai ít chát có độ ngậy và thơm hơn cả là lá gai Trực Ninh, Xuân Trường. Lá gai thu hoạch vào tháng ba, tháng tư trong năm. Phải chọn lá gai không sâu, ngắt cuống đem phơi rồi nghiền thành bột, sấy khô, đóng bao cất nơi cao ráo. Các nơi sản xuất muốn mua bao nhiêu chỉ cần gọi điện là ngày hôm sau bột lá gai được chuyển tận nhà. Thường một ki-lô-gam bột nếp với nửa ki-lô-gam bột lá gai có thể làm được hai mươi chiếc bánh. Nhân bánh gai phải dùng loại đỗ xanh vỏ mốc, đỗ này nở và thơm hơn đỗ thường.

Bánh gai làm bằng loại lá gai đúng tiêu chuẩn thường không đen kịt mà có màu xanh đen, ăn có vị thơm dẻo của gạo nếp, bùi bùi của đỗ xanh giã nhuyễn, dừa nạo và béo ngậy của thịt mỡ thái hạt lựu…mùi vị quyện vào nhau đầy bản sắc.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Các món ăn từ cá của vùng quê Nam Bộ

Những đặc sản miền quê từ cá lóc

Vùng đất Nam Bộ ruộng lúa mênh mông, sông ngòi chằng chịt là nơi sinh sôi của bao nhiêu loài tôm cá, thủy sản : “Ruộng đồng mặc sức chim bay – Biển hồ lênh láng mặc bầy cá đua”. Chính vì vậy cái thú tát đìa bắt cá về chế biến món ăn đã trở thành một kiểu thưởng thức ẩm thực độc đáo ở miền Tây Nam Bộ. Trong đó, Đồng Tháp là xứ mà cá lóc nhiều và ngon đặc biệt.

CÁ LÓC NƯỚNG TRUI

Mỗi lần tát đìa, đến lúc nước cạn là giai đoạn gay cấn nhất, đám trê, rô cố chúi sâu vào lớp bùn đáy để trốn, còn cá lóc thì cố vượt lên để lách qua bờ thoát thân, nhưng đìa đã cạn, cứ lên tới nửa thành đìa thì rớt xuống. Người dưới đìa cứ thấy con lóc nào phóng lên là lập tức chộp con đó. Tại bàn tiệc dã chiến, những tàu lá chuối xanh mượt đã được xếp dài ở giữa. Bên trên xấp lá chuối là những xấp bánh tráng dẻo trắng phau, đọt xoài, lá lụa, quế vị, húng lủi… tươi roi rói, xen lẫn là những lát chuối chát, khế chua, đôi khi còn có thêm những trái điều chín vàng ươm… Cạnh đó là tô mắm me cay hoặc muối ớt để chuẩn bị cho một món ăn dân dã nhưng cực kỳ ngon và được người dân Nam Bộ rất mê, món Cá lóc nướng trui.


Cá lóc rửa sạch, lựa con chừng 1 kg là vừa, thịt cá vừa ngọt, thơm, lại dễ nướng. Xiên một thanh trúc hoặc thanh tre tươi vót sẵn từ miệng cá cho đến đuôi. Nhiều khi nguời ta còn dùng dao chặt bỏ phần đuôi cá vì như vậy thì khi nướng chín phần bụng và xương cá sẽ không bị ứ máu, thịt cá sẽ không tanh khi để nguội. Sau đó cắm những thanh tre đã xiên cá xuống đất và phủ rơm khô lên, người nướng cá “có nghề” phải lượng sao cho rơm vừa đủ để khi rơm vửa tàn thì cá cũng vừa chín. Rơm dư thì cá khét hoặc chín quá, mất ngọt; rơm thiếu thì cá lại nhão, tanh…

Nhìn đụm rơm cháy đỏ, tiếng mỡ nổ lốp bốp, thật sướng tai, sướng mũi vì cá lóc nướng trui có mùi thơm rất đặc trưng, không giống với loại cá nào khác. Mùi thơm toả ra từ lớp vẩy, thớ thịt và có cả mùi hơi khét của da. Cá chín đặt nguyên con lên tàu lá chuối, cạo bớt lớp vảy cá bị cháy, xẻ lằn dài theo bụng cá, mở ra làm đôi là ăn được. Lấy miếng cá còn bốc khói cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm vào nước mắm hoặc mắm nêm, bạn sẽ thấy thật sướng miệng khi mùi thơm, vị ngọt béo của cá hoà lẫn với các hương vị của khế chua, chuối chát, ăn hoài không ngấy. Hãy nhai thật chậm rãi để nghe bao nhiêu hương vị của rau cỏ, đồng ruộng như ngấm vào tận ruột gan, ăn một lần nhớ mãi.

CÁ LÓC ĐẮP BÙN

Thay vì nướng trui, dân gian còn có món Cá lóc đắp bùn, cá rửa sạch, để nguyên con, dùng bùn dẻo đắp kín, sau đó chất lên rơm rạ đốt. Khi đất khô nứt ra là cá chín, có mùi thơm ngọt, phảng phất chút ít bùn, thường dùng chấm với muối tiêu rất ngon.

CÁ LÓC HẤP BÔNG SO ĐŨA

Nói đến các món đặc sản từ cá lóc ở Đồng Tháp còn phải kể đến món Cá lóc hấp bông so đũa, món ăn có thể chinh phục những thực khách khó tính nhất. Cá lóc làm sạch, ướp với bột ngọt, tiêu, củ hành và ít muối, để trong 10 phút. Hái khoảng 14-18 bông so đũa (non vừa búp nở) ở đọt, rửa sạch, lần lượt sắp phân nửa vào đĩa lớn, đặt cá lên, rồi sắp phân nửa phần bông còn lại phía trên, để trong nồi hấp cách thủy, đậy nắp đun sôi trong 30 phút là cá chín. Nước chấm là nước mắm dầm ớt. Mang dĩa cá nóng ra, lấy bông so đũa phía trên đi, để lộ một phần thân cá khói lên nghi ngút thật hấp dẫn. Món này đặc biệt ở chỗ bông so đũa đã thấm hết mùi vị thơm ngọt của cá tiết ra khi hấp, nên nếu nhai chầm chậm bông so đũa bạn sẽ cảm nhận được vị ngon rất lạ. Dùng hết bông so đũa rồi đến cá, hương vị cá hấp do được nhuỵ bông so đũa bao bọc kín nên rất dịu ngọt và thơm ngon. Ai đã một lần thưởng thức món ăn này do chính người nội trợ Đồng Tháp chế biến hẳn sẽ không thể nào quên.

CÁ LÓC NƯỚNG LÁ SEN

Một món ăn khác, độc đáo không kém Cá lóc hấp bông so đũa là Cá lóc nướng lá sen, cái tên mà chỉ nghe thôi cũng cảm thấy xao xuyến chất bưng biền Nam Bộ, nơi có những cánh đồng sen bát ngát, cá lóc táp mồi có lúc phóng nằm trên những lá sen. Thế là nguời dân miệt vườn sáng chế ra món cá lóc nướng lá sen đơn giản, không đòi hỏi nhiều công phu nhưng lại đậm đà hương vị miền sông nước.

Khác với những món cá lóc nướng khác, cá lóc nướng lá sen đặc biệt ở chỗ nước chấm. Mắm nêm nguyên chất có vị mặn và chát, phải pha thêm đường, bột ngọt, chanh, bằm nhuyễn thơm rồi dùng khăn vắt nước cốt dừa hòa chung cho sền sệt là được.

Về khâu nướng cá, phải chọn con cá còn tươi sống, rửa sạch cho vào thau rồi rải đều lớp muối lên trên, đậy kín lại. Trong thau con cá lóc càng vùng vẫy bao nhiêu thì càng sạch chất nhờn chừng ấy. Bắt cá xiên từ miệng đến đuôi bằng một que tre vót nhọn rồi dùng lá sen gói kín lại hai, ba lớp. Lá sen phải là lá sen già, còn tươi có màu xanh thẫm, cứ thế cho con cá lên bếp than cháy đỏ mà nướng, vừa nướng vừa xoay trở mình cá. Lá sen cháy cho mùi thơm thanh thoát, nồng đượm. Khi lá cháy hết cũng là lúc cá chín đều, cá chín nhờ sức nóng của lá sen còn tươi. Cách nướng này không làm da cá bị khét như cách nướng trui, trái lại còn làm da cá vàng ươm, sống lưng cá nứt ra, dùng tay hoặc đũa tách làm đôi, rút bỏ xương, rưới mỡ hành cùng đậu phộng, cuốn với bánh tráng mỏng, các loại rau ghém, bún chấm nước mắm nêm tạo cho người ăn niềm thích thú riêng. Da cá vừa béo vừa giòn thoang thoảng hương sen, thịt cá rất ngọt hòa trong vị nước chấm đặc trưng... không gì hấp dẫn bằng.

Ngoài ra, nhắc đến món ăn từ cá lóc, chắc chắn không thể bỏ qua những món ăn hằng ngày rất quen thuộc với người dân Nam Bộ như khô cá lóc, canh chua cá lóc, cá lóc kho…


KHÔ CÁ LÓC : Cá lóc bắt về mổ bụng, xẻ thịt, lấy ruột gan ra, đem ướp muối phơi. Nếu trời nắng gắt, phơi khoảng vài nắng là được. Khi cá đã khô, người ta thường treo lủng lẳng ở nhà bếp, dùng để ăn lâu dài, khi ăn ta có thể nướng hoặc chiên giòn lên. Khô cá lóc thường dùng ăn với cơm, cháo trắng hoặc làm mồi nhậu. Khi ăn cơm, người ta thường chấm với nước mắm me có dầm ớt, nhưng ngon nhất vẫn là chấm với nước mắm xoài. Nhâm nhi vài ly rượu đế, vị chua của xoài, vị mằn mặn của khô cá hoà quyện với nhau, ta chợt nhận thấy món ăn tuy đơn giản nhưng ngon vô cùng.

CÁ LÓC KHO: Cá làm sạch, cắt ra từng khứa, cho vào mẻ kho. Kho cá lóc cũng như kho các loại cá khác, có thể kho khô hoặc kho nước. Nếu kho khô thì cho tiêu thật nhiều, còn kho nước thì có thể để vào vài trái ớt sừng trâu. Ăn kèm với các loại rau, dưa leo, chuối chát, nếu bằm xoài sống cho vào nước kho thì ăn cảng ngon.


CANH CHUA CÁ LÓC: Đây là một trong những món ăn đặc trưng mà người Nam Bộ từ thành thị đến nông thôn đều ưa thích. Cá lóc làm sạch, cắt ra từng khứa to nấu với me, giá, bạc hà, ngò gai, cà chua… phi thêm chút tỏi cho thơm. Ăn canh chua cá lóc muốn ngon thì nước chấm phải là nước chấm trong (chưa pha chế), dầm ớt vào cho cay. Tô canh chua cá lóc nóng nghi ngút, hấp dẫn với màu trắng của thịt cá, màu vàng của thơm, màu đỏ của cà, màu xanh của ngò gai… cùng lớp tỏi phi vàng nổi trên mặt khiến ta chỉ nhìn thôi cũng muốn ăn ngay…

Chỉ với con cá lóc người dân Đồng Tháp còn có thể chế biến ra hơn một chục món ăn ngon khác, món nào cũng độc đáo, hấp dẫn, đậm đà hương vị miền Nam. Chắc chắn rằng, cá lóc nướng trui, canh chua cá lóc, cá lóc nướng lá sen… vẫn luôn là những món ăn thấm đẫm hồn quê mà nguời dân đất phương Nam vẫn luôn lưu giữa trong tâm khảm mình, dù có đi bất cứ nơi đâu.