Làng Thanh phần - Phúc Hòa - Phúc Thọ trong mắt những người con sơ tán

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Làng Thanh Phần

Tôi cũng không rõ vì sao chúng tôi lại chuyển địa điểm sơ tán về huyện Phúc Thọ, Hà Tây. Chỉ biết lớp 3 và lớp 4 chúng tôi học ở làng Thanh Phần (có người nhớ là Thành Phần). Đầu làng có một cái giếng rất to xây bằng đá ong, nước không trong lắm, thả bèo hoa dâu. Giếng hình tròn, đường kính giếng dễ phải tới 8-9 mét. Gần giếng có một cây gạo hoa đỏ rực, đầu mùa hè chim chào mào hay về ăn hoa gạo. Trại sơ tán dựng nhà ở, nhà ăn, bếp và lớp học trên mảnh đất đầu làng, phía bên ngoài luỹ tre. Một số bạn vẫn ở nhờ nhà dân. Nhà ở chúng tôi vách liếp, lợp lá, nền đất. Giường là những tấm phản kê trên mễ.

Cạnh nhà ăn có một mảnh đất rộng, chúng tôi cải tạo thành vườn rau. Mùa hè trồng rau muống, mùa rét trồng su hào, rau cải. Phải đi lấy nước phân lợn về hoà với nước giải để tưới rau. Mấy bạn trai còn “sáng kiến” đi hót phân trâu về ủ trong hố nước giải để tăng “chất bổ” cho rau. Đi chơi đâu, nếu thấy bãi phân trâu thì phải nhanh tay cắm một cành lá vào đó để xí phần.

Hè đến, chúng tôi hay ra đầm sen (chỉ có lác đác sen) ngụp lặn mò trai, hay ra con sông đào xúc hến về cải thiện. Chúng tôi học bắt cua ngoài đồng. Ai cũng đen nhẻm, nhưng vui. Có lần, thò tay nhầm vào hang rắn, sợ chết khiếp. Chúng tôi bắt cả châu chấu, cào cào, lươn, trạch, chão chuộc, đi hôi cá, đi cất vó, đi câu tôm ở giếng làng, đi bắn chim sâu, chim sẻ, chim chào mào về ăn. Có lần còn đi bắn cả cò. Chẳng phải đói ăn, mà chỉ vì sống ở trong một cái làng đồng quê Bắc bộ, những “trò” ấy quá bình thường.

Trại có nuôi gà và lợn để tận dụng thức ăn thừa. Có lần, bác Tám mắng mấy cậu đang bốc cháy ăn :”Chúng mày không để phần lợn với à?”. Hồi cô Nguyệt về thay cô An làm y sĩ, thỉnh thoảng chúng tôi được ăn mì thanh Ba-lan luộc, chan nước thịt gà, cứ gọi là sướng như tiên. Sau này, cô Nguyệt không liên hệ xin được mì Ba-lan nữa, chúng tôi phải tự cán lấy mì sợi. Khác với hồi ở Cao Bằng, hồi này chúng tôi ăn độn bột mì, thỉnh thoảng mới ăn ngô bung, hoặc bánh đúc ngô cho bữa sáng.
*
* *
Các thày các cô dạy chúng tôi là : thày Kền, thày Hán, cô Hiểu, sau thêm cô Dậu, cô Mai, thày Thọ. Chú Khuông phụ trách lớp dưới, đóng bên Minh Nghĩa, phía bên kia đường nhựa. Ban đầu, các lớp học đều trực thuộc Phòng giáo dục huyện, về sau có quyết định thành lập Trường 15 (tên đầy đủ là Trường phổ thông cấp 1 số 15, còn gọi theo phiên hiệu trong quân đội là trường T-15), trên mới cử thày Thọ về làm Hiệu trưởng. Chính thày là người sáng tác bài Trường ca 15. Tôi còn nhớ một đoạn :

Trường chúng ta từ bốn phương trời,
Về đây vui cùng chung sống
Về đây hát khúc ca vang kết đoàn...

Mười lăm ! Đây trường ta yêu mến,
Mười lăm ! Đây trường ta yêu quý...


Thày Thọ về trường hình như hồi chúng tôi lên lớp 4. Thày vui tính nhưng nghiêm khắc, có lẽ thày là đảng viên. Thày đưa cả “cô giáo” lên ở tại trường. Hồi ấy, thày cô sắp có em bé (sau đặt tên là Quốc Quân thì phải). Thày Hán dong dỏng trăng trắng, cô Hiểu người thấp, trán cao, da nâu, tóc dài chấm gối, dạy lớp trên.

Thày Kền dạy lớp chúng tôi. Tên đầy đủ của thày là Trần Hùng Kền, nhưng thày ghi trong quyển sổ chép bài hát là Trần Hải Anh. Người thày thấp đậm, ngực nở, bụng thon, đùi dế, miệng rộng, hay cười, mắt sáng, nói chuyện có duyên, dễ mến, có má lúm đồng tiền, phải nói là đẹp trai. Thày có một tấm ảnh “màu”, tức là ảnh chân dung trắng đen cỡ 3x4, nhưng thợ ảnh dùng màu mè bôi lên cho đẹp. Mà đẹp thật. Quân hàm hạ sĩ màu đỏ chói, áo bộ đội xanh tươi như tàu lá chuối, má phơn phớt hồng trông như văn công, ngôi sao vàng gắn trên mũ. Thày mê ca hát, thường không bỏ sót một buổi Dạy hát nào trên đài, lúc 1 giờ rưỡi chiều chủ nhật. Thày chăm chú ghi lại nốt nhạc (chắc thày có được học ký xướng âm), lời bài hát, cẩn thận học thuộc bài hát đó và tối đến dạy lại cho chúng tôi. Những bài như: Phi đội ta xuất kích, Về đây với đường tàu, Nổi trống lên rừng núi ơi, Người Châu Yên bắn máy bay, Cô gái vót chông... là chúng tôi học ở thày. Một kỷ niệm khó quên là trong khi đọc nhạc bài hát, có lần cô phát thanh viên đọc: la đen gạch nhịp, bị chúng tôi biến tướng thành Lương đen gạch nhịp, để trêu bạn Võ Hiền Lương.

Trước cửa nhà ở của nam có mảnh đất trống. Thày bỏ mấy ngày nghỉ hì hục làm cho chúng tôi một chiếc xà đơn bằng tre và vầu, chúng tôi đua nhau tập co tay kéo xà, ke bụng. Thày làm cả tạ để tập hàng ngày. Thày Kền còn dạy cho chúng tôi bơi vì sợ có ngày chúng tôi đi chơi sa xuống ao hồ. Hôm ấy, thày bắt tất cả con trai quần đùi áo may ô (xin lỗi, cởi trần) ra con sông đào. Chúng tôi xếp hàng ngang, dọc theo con sông. Thày Kền cũng cởi trần trùng trục, nói dõng dạc :

- Hôm nay, chúng ta học bơi. Tôi nói trước, khi xuống nước, nếu “anh” nào mà bám lấy tôi thì tôi sẽ đánh cho ngất đi rồi mới cứu. Nhớ chưa ? Thôi, bắt đầu !

Thày tóm lấy một bạn to khoẻ nhất, cầm chân cầm tay như tóm một con ếch và vứt tùm xuống sông. Anh bạn tội nghiệp kia lóp nga lóp ngóp được vài phút thì bắt đầu chới với. Thày nhảy ùm xuống sông, bơi rất dũng mãnh lại gần và tóm tóc lôi vào bờ. Thày hỏi:”Đã uống nước chưa?”. Anh bạn, bụng có vẻ phinh phính, thiểu não đáp: ”Dạ...rồi...rồi ạ”. Thày quay sang đám chúng tôi, từ nãy đến giờ vẫn đứng nghiêm bên bờ sông mục kích “bài học bơi” và đanh giọng :
- Người tiếp theo !

Mặt chúng tôi xanh hết cả lại.

Ấy thế mà rồi chúng tôi cũng biết bơi cả, chẳng có ai chết đuối, ngoại trừ một lần “suýt”. Lần ấy là vào dịp hè, nhiều bạn đã về nghỉ hè, cuối tháng tám mới phải lên, nhưng cũng có bạn do gia đình neo người nên cho lên trại sớm. Bạn Đức Thành là một bạn như vậy. Mẹ bạn khá chiều chuộng nên một lần, tôi nhớ là bạn giận mẹ vì đã không mang đường hay sữa gì đó lên (mà bạn đã viết thư dặn mẹ rồi), liền xông ra con mương bao quanh sân kho hợp tác để... tự tử. Đức Thành bơi khá, con mương chỉ nông... có đến rốn, nên Đức Thành phải mặt cúi xuống, ngụp hẳn đầu xuống mương, mãi mà không chết đuối, vì cứ khi nào ngạt thở, bạn ấy lại ngẩng đầu lên, gào ầm ầm:”Ôi, có người chết đuối !”. Đâm ra, tự tử không thành. Chúng tôi được một phen cười tưởng vỡ cả bụng.

Nhờ biết bơi mà có lần bạn Liêm thoát hiểm. Hôm ấy, đi hái trộm khế ở gần bờ ao, cành khế gãy, Liêm tự bơi được vào bờ bên kia. Ở bờ bên này, chú chó dữ tợn của chủ nhà cứ lồng lộn sủa ầm ĩ.

Trong các chuyện về thày Kền thì chuyện thày bị mất đạn là ấn tượng nhất. Tôi quên nói là hồi đó các thày được phát súng (CKC hay AK gì đó), nhưng không thấy các thày bắn máy bay bao giờ. Một dạo, quan hệ giữa thày Kền và lũ chúng tôi có vẻ căng thẳng hơn bình thường. Lý do là chúng tôi quá quắt hơn trước, nghịch ngợm hơn trước, thậm chí vô kỷ luật hơn trước, có dấu hiệu “nổi loạn”. Cho nên thày cũng có phần nghiêm khắc hơn. Hôm ấy, có lẽ bạn trai nào đó đã ăn cắp đạn của thày. Buổi chiều, sau khi phát hiện ra đã bị mất hai viên đạn, thày lập tức xuống khu nhà ở của chúng tôi và gầm lên, quyết tìm ra thủ phạm. Một số bạn đi học bài trên lớp hay đi chơi vắng, thày bắt mọi người đi tìm về. Đến 5 rưỡi, thày thổi còi ra lệnh tập hợp trước sân và cảnh cáo những ai không chịu ra “đầu thú” sẽ phải chịu những hình thức kỷ luật nặng nề. Chúng tôi vẫn đứng nghiêm trên sân, không nhúc nhích. Thày liền về nhà bỏ quần áo ngoài, chỉ mặc độc quần đùi áo lót, đi bít tất, mang giày ba ta, lắp thêm lưỡi lê vào đầu khẩu súng và bỏ mặc chúng tôi đứng như trời trồng ngoài sân. Thày sục lưỡi lê trần vào trong từng gầm giường của chúng tôi và liên tục bảo: ”Ra ngay, ra ngay!”, làm chúng tôi ớn lạnh. Sau đó thày còn sục cả lưỡi lê vào hầm trú ẩn cạnh nhà. May mà chẳng có ai nấp ở đấy. Thực ra thì có mấy bạn đang nấp trên mái nhà (cả bạn phạm lỗi và bạn không phạm lỗi), nằm im thin thít, không ai dám xuống vì thấy thày đang nóng quá. Cuối cùng, chúng tôi phải chịu hình phạt đứng ở sân thay cho người khác, đến 10 giờ 30 mới được đi ngủ. Hai hôm sau, hình như bạn nào đó đã lén trả lại hai viên đạn về vị trí ban đầu của nó.

Mãi sau này, khi chúng tôi trưởng thành, học xong đại học thì mới biết tin. Năm 1969, trường 15 giải thể, thày Kền tình nguyện xung phong đi chiến đấu ở chiến trường B (chiến trường miền Nam), được phân về binh chủng xe tăng. Nghe nói mùa xuân 1975, xe tăng của thày bị trúng cả một quả đạn chống tăng. Chúng tôi lặng người đi và ân hận mãi về những điều dại dột đã làm.
*
* *
Nhớ về trường 15, chúng tôi cũng hay nhắc tới bác Thiết. Phần vì bác là mẹ bạn Mạnh Hà, nhưng chủ yếu là vì bác đã gắn bó với chúng tôi suốt từ hồi ở Cao Bằng. Bác phụ trách việc tắm rửa cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Ngoài ra, bác hay giúp nhà bếp cọ rửa xoong nồi, đĩa chảo.

Trời mùa đông, bác đun một thùng nước nóng và đổ ra một chiếc chậu lớn. Nếu không bắt được “bọn con trai”, thì bác sẽ thuyết phục “bọn con gái” tắm trước. Khi đi tắm, mỗi người phải tự chuẩn bị áo quần để thay và khăn lau. Khi bác Thiết hô tên đứa nào thì đứa đó phải nhanh chóng cởi quần áo ra, chui vào buồng tắm. Nhiều bạn ngượng nên bị bác “mắng” cho sát sạt :”Ôi, cứ làm như của báu lắm ấy ! Cởi ra !”. Gặp phải ai lười tắm nhiều ghét, bác sát xà phòng đến nơi đến chốn, sau đó vừa kỳ vừa dội nước cho, lại vừa nói oang oang như là kể chuyện, làm kẻ đó chỉ muốn chui xuống đất. Một lần, đến phiên “bọn con gái” tắm, chúng tôi ngồi trong nhà cười khúc khích vì nghe thấy bác tiếng đang “bình luận” về các bạn gái cùng lớp của mình :”Gớm, mấy đứa con gái chúng mày, chẳng có đứa nào trắng bằng cái mông thằng Sơn Hà!”. (Xin lỗi Sơn Hà). Bác Thiết được các bà mẹ tin cẩn gửi tiền nhờ mua hộ trứng gà, trứng vịt bồi dưỡng thêm cho các cháu. Bác chậm rãi đeo mục kỉnh, lập danh sách những người được ăn thêm trứng và cẩn thận lấy bút chì đánh dấu trứng của từng người, sợ lẫn. Đến hôm luộc trứng, bác lại “réo” danh sách để những người sắp tẩm bổ ở tư thế sẵn sàng.

Bác là người lo cho chúng tôi giấc ngủ trưa ngủ tối, khâu vá, đơm khuy cho lũ chúng tôi. Nếu ai đó trong chúng tôi bị ốm, thì cô An (sau là cô Nguyệt) là người phát thuốc khám bệnh, còn bác Thiết là người lo nấu cháo thịt và dỗ dành. Bạn Đăng Thảo kiêng ăn thịt bò, bác biết vậy nên mỗi lần nhà bếp liên hoan món thịt bò, bác lại nhắc nhà bếp nấu một suất ăn riêng cho bạn Thảo.

Có một dạo, cô Mai, mẹ bạn Đỗ Bình cũng “rửa ráy” cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Nhưng vì cô phục vụ lớp dưới nhiều hơn, nên kỷ niệm về cô không sâu đậm như những kỷ niệm về bác Thiết.

*
* *
Cô An là y sĩ của trường 15, nhưng đôi khi cô đóng luôn cả vai trò cô giáo, vì cô thường lên lớp cho chúng tôi môn ngoại khoá: y học thường thức và vệ sinh công cộng. Học đi đôi với hành ngay tắp lự. Cô đốc thúc chúng tôi quét tước nhà cửa, vun rác, đốt rác, mở chiến dịch phun thuốc DDT diệt ruồi muỗi. Đích thân cô đi kiểm tra nhà tắm, nhà xí, nhà ăn. Chỗ nào chưa sạch là mất điểm thi đua như chơi. Chiều thứ ba hàng tuần, cả lớp tập trung dưới lũy tre ngay trước phòng y tế, cô An mặc áo bờ-lu trắng, cầm quyển vở đứng trước bảng đen và dạy chúng tôi. Cô soạn giáo án nghiêm túc, không đùa được. Chữ cô tròn, đẹp, rõ ràng, không thể đánh đồng với “chữ bác sĩ”. Môn học này Bộ giáo dục không quy định, nhưng cô đề nghị với nhà trường cứ xếp lịch để cô dạy, có lẽ vì cô coi chúng tôi như đang ở trong một đơn vị quân đội. Nhờ thế, chưa bao giờ xảy ra dịch bệnh gì trong trường.

Cô Nguyệt về thay cô An đi học bác sĩ. Cô là mẹ bạn Quang Minh. Cô trông trẻ hơn cô An và không nghiêm bằng cô An, nhưng cũng là người rất trách nhiệm. Cô kiểm tra dụng cụ nhà bếp kỹ lưỡng, từ con dao thái thịt đến từng cái chậu nhôm đựng cơm. Chiều thứ bảy nào, nhà bếp cũng đun một thùng nước nóng to để nhúng bát đũa và các dụng cụ nấu ăn. Sau này, chúng tôi đi sơ tán lần hai (năm 1972), mới thấy “trường 15 mình” thật sạch sẽ, vì ở chỗ khác, có ai làm cẩn thận như vậy đâu. Những lúc rỗi việc, cô Nguyệt lại xắn tay xuống bếp cùng nặn bánh bao, giã cua, nhặt hến... với bác Tám, cô Nhâm. Những hôm trời mưa, đường làng bê bết bùn, cô hay đi đôi ủng cao su màu đỏ. Đến nỗi bây giờ nhớ lại, tôi cứ luôn hình dung cô đang đi ủng trước mặt tôi vậy.
*
* *
Những tháng ngày ở Thanh Phần đã giúp chúng tôi có những hiểu biết cực kỳ bổ ích về cuộc sống nông thôn. Làng có nhiều loại hoa quả: ổi, bưởi, doi, na, khế... thông thường, nhưng quả chay chẳng hạn, tôi tin là bây giờ không có nhiều người thành phố biết đến. Có nhiều con vật: trâu bò, gà vịt, ngan ngỗng... nhưng mấy ai đã “được” ngỗng đuổi, cắn cho tím bầm, thậm chí chảy máu như chúng tôi. Rồi những con cào cào to bằng quả chuối tây, con dế trũi đầu to bằng ngón tay cái, chắc bây giờ chỉ còn trên sách vở. Chúng tôi được tận mắt xem đâm trâu (thực ra là mổ thịt trâu, vì con trâu ấy bị “lòi dom”), thui chó bằng rơm, bẫy chim sẻ bằng lưới, cảnh chăn vịt đàn, bắt cá rô rạch từ đồng lên bãi cỏ, câu cá chuối trong những buổi mưa giăng màn, dùng phi tiêu đâm cá mè; được thưởng thức những món ăn dân dã : châu chấu rang, cá rô bọc đất sét nướng, khoai lang mật, thịt ếch xào chuối xanh, cá kho sung...; được ăn chung nồi cơm gạo mới với người nông dân, gặt từ ngoài đồng về; được ngắm thoả thích vầng trăng sáng trên sân kho hợp tác mênh mông... ; được biết thế nào là rét căm căm, khoác áo tơi ra đồng, trên tay là ống bơ nhỏ đựng mấy cục than củi đỏ rực làm lò sưởi; được trải qua nỗi hân hoan vô bờ bến khi “hôi” được con cá to, hay câu được con tôm trong suốt bám vào thành giếng làng, mồm con tôm chỉ ngậm mồi chứ không hề cắn.

Ham chơi như vậy nhưng chúng tôi học ra trò. Các kỳ thi học sinh giỏi văn toán cấp huyện, trường 15 đều có đại diện tham gia và đoạt giải cao. Năm lớp 4, chúng tôi có hai bạn được đi thi cấp tỉnh. Thày Kền mượn chiếc xe thồ của bác Bẩm, đèo cả hai bạn (mỗi bạn ngồi một sọt) và một bao gạo lên Hát Môn tập trung ôn và thi tại đó. Tiếc rằng, hai bạn không giành được giải rút gì, vì tiếng là thi học sinh giỏi tỉnh Hà Tây, nhưng các “đối thủ” đều là người Hà Nội sơ tán.

Nếu ai đó hỏi chúng tôi, những ngày bom đạn đó chúng tôi có sợ không thì xin thưa, có sợ. Nhưng nỗi lo sợ chỉ thoảng qua những khi máy bay “Thần sấm”, “Con ma” gầm rít trên trời. Còn khi báo yên rồi thì lại tiếp nối một chuỗi đời học sinh rong chơi, có vẻ hơi vô tư lự, nhưng đầy khao khát khám phá những điều kỳ lạ của cuộc sống. Cũng như hỏi chúng tôi có nhớ bố mẹ không, thì phải nói là có. Nhưng cũng lại phải nói một cách công bằng là chúng tôi không có thì giờ để ngồi nhớ nhung, buồn bã, uỷ mị, mà chúng tôi – những đứa trẻ hiếu động – rủ nhau đi tìm hiểu và tiếp xúc với thế giới xung quanh chúng tôi, đó là cái làng Thanh Phần. Đến chủ nhật, nếu bố mẹ lên thì thật là hạnh phúc, còn nếu không, chúng tôi cũng không tỏ ra buồn bã một cách cực đoan. Phần vì chúng tôi quen với điều đó rồi, phần vì chúng tôi cũng “có chỗ để mà đi chơi”.

Tư tưởng khám phá xung quanh cũng một phần do ảnh hưởng của các cuốn sách có trong thư viện trường, như : Chú người gỗ, Cuộc phiêu lưu của Ca-rích và Va-li-a, Đảo giấu vàng, Rô-bin-sơn Crút-xô, Hai vạn dặm dưới đáy biển, Du hành trong tiểu vũ trụ... mà các thày cô khuyến khích chúng tôi đọc.

Trích từ Diễn đàn www.vnkatonak.com.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Một chuyến đi

Năm 2001, nhân ngày 6-3, chúng tôi tụ họp ở Hà Nội. Bắt đầu là Sơn Hà. Năm 2000, Sơn Hà đi công tác ở Nga về, rủ mấy bạn trai cùng trường 15 đi uống bia tươi ở quán bia Pacific, gần Đài truyền hình, chợt nghĩ ra chuyện tụ tập. Thế là sang năm 2001, trước Tết đã thấy Sơn Hà giục cuống lên. Chúng tôi điện thoại tứ tung, tập hợp được hơn mười người cả trai lẫn gái. Tay bắt mặt mừng, cực vui. Mọi người quyết định sẽ họp trại mỗi năm một lần. Lần họp mặt năm 2002, có mời cả chú Khuông đến. Lần ấy hát karaoke đến tận khuya, mọi người rôm rả bàn chuyện phải về Thanh Phần, Minh Nghĩa một chuyến. Nửa năm sau, nhân Mai Đức ra Hà Nội học, cả hội lại gặp nhau, cũng lại bàn sơ bộ chuyện đi. Lần lữa mãi, đến 2003 mới thực hiện được.

Tích cực nhất là Chí Đức. Chí Đức nhờ một cậu nhân viên quê ở vùng ấy "điều tra tình hình", phát hiện ra có thầy Âu, chủ nhiệm lớp 5A, đã nghỉ hưu, hiện có cửa hàng quay video kiêm chụp ảnh ở Trạm Quạt. Trạm Quạt là chỗ nào nhỉ? Chả ai hình dung ra. Chí Đức gọi điện hỏi thăm thầy giáo, kể lại rằng "giọng thầy vẫn vang, khỏe". Đúng ngày 6-3-2003, chúng tôi khởi hành. Việt Trung mặc dù rất bận vẫn là người đến sớm nhất. Sơn Hà chân ướt chân ráo vừa từ Nga về, nhập cuộc ngay. Trước đó, Sơn Hà đã tưởng không thể tham dự chuyến đi được. Nếu điều đó xảy ra thì chắc bạn ấy tiếc hùi hụi.

Chúng tôi đi một chiếc xe 15 chỗ. Người dẫn đường là cậu nhân viên của Chí Đức. Công tác chuẩn bị phải công nhận là kỹ. Bích Hạnh lo mua đồ ăn nguội phòng xa. Thúy Liên mua áo sơ mi Việt Tiến (cỡ 39, vì thầy đâu có cao to). Lại còn khuân cả một tấm tranh sơn mài "hai người ôm mới nổi" vẽ chùa Một Cột dự định làm tặng phẩm cho trường cũ. Tổng cộng có bốn bạn gái và sáu bạn trai. Xe chạy ngang một cái chợ, mọi người giục nhau xuống mua hai bó hoa. Gần đến ngày 8-3 có khác, hoa nhiều nhưng mua cho vừa ý cũng mệt. Hai bạn gái lĩnh trách nhiệm xuống mua hoa. Hết có 30 phút, nhưng được cái, những bạn khác ngồi đợi trên xe cứ tự nhiên nói chuyện. Câu chuyện nở như ngô rang, nên chả ai sốt ruột. Sơn Hà gọi điện vào Sài Gòn, "chửi" các bạn Vũ Dũng, Lương "đen" sao không nhớ đến "tinh thần 6-3". Mọi người trong đó chắc nao nao lắm.

Xe không đi theo quốc lộ 32 (hồi trước gọi là quốc lộ 11A) mà tiến theo đường cao tốc Láng–Hoà Lạc, đến ki-lô-mét 19 mới rẽ phải, thẳng đường về Thạch Thất. Lúc này, các bạn trong Sài Gòn đã gọi điện ra thông báo, Lương "đen" suýt bật khóc khi biết tin đoàn cán bộ đang trên đường về thăm lại chốn xưa, và đã a-lô đi khắp nơi, tụ tập được năm sáu bạn trong đó, hiện đang ngồi "vừa uống bia vừa suy tưởng". Chị em ồ lên khi Duy Đông gọi điện hỏi "có bạn Bế Ngọc Hà ở đấy không, cho nói chuyện một chút". Duy Đông suy bì "trong đó thiệt quá", vì "chả có em nào phục vụ", mọi người bảo, trong đó có em Phượng và em Thanh cơ mà, song hình như hôm nay số đen, cả Ngọc Phượng và Cao Thị Thanh đều không đến được thì phải. Các bạn trong Nam còn bảo, sang năm nhớ báo sớm để mọi người bay ra Hà Nội với. Các bạn nữ bảo, hoặc là thế, hoặc "các anh mua vé cho các em Hà Nội vào Sài Gòn phục vụ các anh".

Xe đi ngang qua một cái chợ đông đúc, hoa ở đó vừa dễ mua, lại vừa có vẻ đẹp hơn ở Hà Nội, ai cũng chặc lưỡi tiếc rẻ. Không có bản đồ, các bạn nữ không hình dung ra được "ngày xưa chúng mình ở đâu". Khi xe đến quãng xã Đại Đồng thì chúng tôi bắt đầu nhận ra quang cảnh. Sơn Hà có một nhân viên quê ở Đại Đồng, đã về nơi đây đi ăn cưới, và mấy lần suýt mua đất ở Đại Đồng làm nhà nghỉ cuối tuần. Ồ, được thế thì vui quá! Cả hội cố tìm bóng dáng Trường cấp 2 Đại Đồng, nhưng không thấy. Chỉ thấy một ngôi trường chơ vơ giữa đồng gần phía làng Ngọc Lâu. Chúng tôi nhớ đến câu ca "Thành Phần có Lịch, Minh Nghĩa có Lân, Ngọc Lâu anh Hẫu, giáo Ái Đại Đồng" kể về những nhân vật "lịch sử" khiến chúng tôi phát sợ.

Chúng tôi quyết định đi thăm thầy Âu trước, và nhờ thầy dẫn ra trường gặp Ban Giám hiệu. Xe đi xuyên qua làng Minh Nghĩa, đường làng nhỏ hẹp, trải bê-tông phẳng, thỉnh thoảng phải bò chầm chậm để tránh xe đạp xe máy đi ngược chiều. Chiếc sân kho to tướng hồi xưa chúng tôi hay ra tập thể dục và thỉnh thoảng được dùng làm nơi chiếu phim (do điện ảnh quân đội phục vụ) giờ đây đã bị lấn chiếm hầu hết, chỉ còn một khoảnh bé tí, đủ cho một cái chợ làng tồn tại. Anh chàng "thổ dân" luôn miệng hỏi thăm nhà thầy Âu. Sau thì cũng tìm ra. Chả phải đâu xa, nhà thầy ở ngay ngã ba trên đường 32, đúng lối rẽ vào làng Minh Nghĩa.

Trước lúc xe khởi hành, từ Hà Nội, Chí Đức đã cẩn thận gọi điện thoại cho thầy báo rằng "chúng em bắt đầu đi", thầy hỏi đoàn có bao nhiêu người, để thầy còn "đi bắt ngan". Chúng tôi xuống xe, kéo nhau vào nhà thầy. Thầy Âu diện com-plê cra-vát ra đón chúng tôi. Thầy trò uống nước, nói chuyện rất vui. Thầy có 7 người con (người con đầu sinh năm 1956), đều đã trưởng thành. Cuộc sống của thầy hiện tại nói chung ổn định. Thầy Âu kể, hồi đó các thầy các cô được cấp trên "giao nhiệm vụ", vì chúng tôi không phải là những học sinh bình thường, mà là những học sinh "cần sự chăm sóc đặc biệt". Thầy hỏi, dưới mắt của chúng tôi, hồi đó thầy là một người thầy như thế nào. Chúng tôi kể lại, quả thực hồi đó thầy hơi "lãng mạn". Đỗ Bình đột nhiên hỏi thầy về một cô gái hay ngồi bán nước giải khát ở phòng ngoài "nói chuyện có duyên". Thầy bảo đó là cô con gái thầy. Thì ra, Đỗ Bình đã vào quán nhà thầy nhiều lần rồi, vì năm nào Đỗ Bình cũng đi viếng mộ trên Yên Kỳ, đến Thanh Phần, Minh Nghĩa bao giờ cũng nghỉ dừng chân uống nước. Đỗ Bình tặng thầy một tấm ảnh chụp các bạn ở trường 15, phía sau có ghi tên từng người.

Ngồi chơi một lát, chúng tôi mời thầy cùng ghé qua trường Đại Đồng. Trường cũ không còn nữa. Đất của trường đã chia cho dân làm nhà, còn trường xây mới trên cánh đồng, gần làng Ngọc Lâu. Đúng là cái trường chúng tôi nhìn thấy lúc nãy, ô tô phải đi đường vòng mới tới. Chúng tôi bước chân vào trong ngôi trường. Hôm đó là thứ năm nên học sinh được nghỉ sớm. Ban Giám hiệu (dù đã được thầy Âu thông báo từ trước) không có ai, vì có lẽ tại chúng tôi đến muộn (11 giờ trưa). Cũng may, thầy Âu nhờ bác bảo vệ cho người đi gọi cô Hiệu phó. Tranh thủ lúc đó, chúng tôi nhẩn nha dạo quanh trường và chụp ảnh kỷ niệm. Trường gồm một dãy nhà hai tầng và hai dãy một tầng, có hơn 1.000 học sinh. Sân trường rộng, thoáng mát, có mấy hàng phi lao cao vút gió thổi vi vu.

Một lát sau, cô Phương hiệu phó đến, mời chúng tôi lên Phòng Hội đồng. Hoá ra, cô cũng là học trò thầy Âu, học cùng lớp với anh Võ Điện Biên. Chúng tôi giới thiệu với cô Phương về mình và có nhã ý tặng trường món quà nhỏ: một bó hoa, một bức tranh sơn mài, và một chút đóng góp vào Quỹ hỗ trợ học sinh nghèo vượt khó. Cô Phương rất cảm động. Thay mặt toàn thể nhà trường cô nói lời cảm ơn, và mong các cựu học sinh có dịp lại về thăm trường trong thời gian tới. Chúng tôi ghé vào Phòng truyền thống của trường và biết thêm thầy hiệu trưởng hồi đó (1968) là thầy Ghi (Tuấn "đét" còn nặn óc nhớ là thầy Nguyễn Anh Ghi).

Đứng trước cổng trường, chúng tôi bồi hồi nhớ tới đến lớp 5B ẩn mình dưới lũy tre (giờ đã là một ngôi nhà dân), cây đa khổng lồ giữa đồng (đã không còn tồn tại với thời gian), lớp 5C ở xóm trước mặt, lớp 5A có chiếc hầm trú ẩn hình chữ "A" đắp bằng đất sét trông rất kiên cố (ở trong làng, vượt quá tầm mắt)... Ngay cạnh trường mới, có một ngôi chùa mới mọc lên. Nhưng nó không sao len được vào tâm trí của chúng tôi.

Chúng tôi quay xe trở ra, rẽ vào làng Thanh Phần. Xe đi ngang qua một lò gạch ngổn ngang, đã thấy hiện ra một chiếc cầu và chiếc giếng làng hình tròn ngày nào. Chiếc cầu bê-tông có vẻ bé đi: ngày xưa, có lần bác Bẩm tiếp phẩm đã bị ngã xe đạp ở cầu này. Giếng làng vẫn to như thế. Thành giếng không còn "cổ kính" lỗ chỗ đá ong như cái hồi xa xưa nữa, dân làng đã trát xi-măng nhẵn thín. Nước giếng cũng không trong như xưa nữa: không thấy các cánh bèo hoa dâu tổ ong nho nhỏ, màu xanh pha lẫn màu nâu đâu cả. Cả đoàn dàn hàng ngang ngồi lên thành giếng chụp một pô ảnh. Cây gạo hoa đỏ gần giếng không còn. Từ mảnh đất đầu làng chỗ cây gạo (xưa là ruộng rau muống, mùa đông thường thả rau cần) đến dãy nhà thày Kền, kho gạo, buồng "hạnh phúc", lớp học... tất cả đều đã biến thành nhà dân.

Chúng tôi bách bộ trên con đường bên cạnh bờ mương. Con mương cạn nước, hai bên thành mương đầy các lỗ cua như ngày nào. Nơi này là nơi có đàn ngỗng đi ăn cỏ chiều chiều hay "gây gổ" với chúng tôi, bị bạn Hiếu Liêm dùng một cọng khoai nước nướng chín nhũn ra, đè lên cổ, làm bọn ngỗng tái mặt tưởng rắn, cúi đầu nằm im thin thít. Không còn dãy xoan thân nâu đen mảnh khảnh, hoa ngan ngát tím trồng hai bên bờ mương: mùi hoa thơm nhẹ nhàng, nhưng có rất nhiều dĩn bay ra từ đấy. Hai cái nhà kho cũng đã bị thay thế bằng một cái nhà nhỏ hơn, xoay hướng. Sân kho không còn nữa, chỉ thấy một bãi cỏ phẳng. Đi một loáng đã hết đường, thế mới biết chúng mình ngày xưa bé thật!

Đi thêm nữa là ra đến cánh đồng, gần "nương sắn". Mấy bụi tre ven làng có vẻ nguyên vẹn nhất, dù ngọn tre không xanh um, mà hơi úa vàng, xơ xác. Có bạn định đề nghị đi ra con sông đào, nơi có "lớp học bơi của chúng mình", cách khoảng 1-2 cây số, nhưng lúc đó đã trưa rồi, nên chúng tôi quay lại. Đầm sen phía xa xa hình như đã biến thành ruộng cạn. Hồi trước, dẫu không ngửi thấy hương thơm của sen trong đầm, nhưng từ góc nhìn này, chúng tôi vẫn thấy thấp thoáng vài ba chiếc lá sen to bản nhô lên. Chúng tôi quyết định rẽ vào một ngôi nhà để hỏi chuyện. Sau khi nghe giới thiệu, chủ nhà, một người đàn ông trạc trung niên, mắt sáng rực, nhớ ra ngay. Đó là nhà hồi trước Thúy Liên, Bế Hà... ở. Thúy Liên nhắc tới bà cụ chủ nhà lưng còng, và một em bé gọi là cu Bòi, hồi đó các bạn gái hay bế ẵm, cho kẹo. Thì ra, người đàn ông nọ chính là em bé đó.

Anh hấp tấp mời chúng tôi vào trong nhà. Ngôi nhà đã được xây dựng lại, nhưng vẫn còn đâu đó bóng dáng của ngôi nhà cũ. Hướng vẫn thế. Cả chiếc sân gạch cũng thế. Chúng tôi ngồi lên bậc thềm chụp vài pô ảnh với cu Bòi ngày xưa. Men theo con đường, chúng tôi ghé đến nhà Thơ, một cậu bé hay chơi đáo xu ăn tiền với chúng tôi (cậu này mắt một mí, chơi khá mả).

Ngày trước, đây là đường đất rộng rãi mát mẻ, vì hai bên có lũy tre dày, ánh nắng mặt trời không xuyên qua được. Giờ đã là đường bê tông, nhưng hẹp hơn, hai bên có cống rãnh thoát nước, nhuốm màu sắc thị thành, bớt đi cái vẻ thôn dã.

Đến nhà Thơ, sau khi nghe nói là "có người ở trại sơ tán về thăm", một cuộc đón tiếp tưng bừng đã nổ ra. Thơ không có nhà, đúng hơn là anh ấy không ở đây nữa. Chúng tôi đứng giữa sân, tay bắt mặt mừng, kể lại với chủ nhà về những kỷ niệm 35 năm trước: đây là cái ao, đây là vườn dong giềng, đây là cái cối giã gạo lâu năm lên nước gỗ đen bóng, nhà mình nấu cơm thường nấu bằng một chiếc nồi có thành rất cao, đúng không?... Chủ nhà công nhận cả và cảm động, vì đã hơn ba mươi năm mà chúng tôi vẫn nhớ ra từng chi tiết nhỏ nhặt ấy. Tất cả vào nhà ngồi uống nước chè xanh, râm ran câu chuyện. Nói chung, dân làng vẫn nhớ đến trại sơ tán, đến trường 15 với một tình cảm thân thiết. Một chị bảo, chị chỉ là con dâu, không trực tiếp biết chúng tôi, nhưng bà mẹ chồng của chị ngày còn sống lúc nào cũng nhắc đến trại sơ tán và hỏi thăm bà Tám, bà An...

Chúng tôi bịn rịn chia tay dân làng ra về. Năm sau, rất có thể chúng tôi sẽ lại "về quê" cùng những người bạn ở phương Nam. Tôi tin là tất cả mọi người sẽ trải qua một buổi tối rất khó ngủ, nếu như chúng tôi cố tình tổ chức một đêm ngủ lại ở nơi đó.
 

khuatquangthin

Tự hào là người họ Khuất
12 Tháng mười hai 2008
1,183
0
36
47
Bình Dương
www.hokhuatvietnam.org
Về lại chốn xưa
Đưa nhau ta thì về,
Đưa nhau ta cùng về,
Thăm lại miền quê,
Nơi có một triền đê,
Có bờ tre ru những trưa hè...


(Về quê - Phó Đức Phương)

Sau Tết Giáp Thân 2004, đang làm việc thì tôi nhận được điện thoại của Tuấn "Đét" nhắn ngày mai có cuộc họp trù bị bàn kế hoạch cho ngày 6-3. Hôm sau đúng 10 giờ, chúng tôi có mặt tại phòng họp cơ quan Sơn Hà với tinh thần rất nghiêm túc, thề danh dự bố mẹ, không vương vấn một tí bia bọt gì. Sơn Hà nói, năm nay sẽ có các bạn ở thành phố Hồ Chí Minh ra cùng về Thanh Phần, Minh Nghĩa, vì thế công tác chuẩn bị nên chu đáo một chút. Chúng tôi nhất trí phân công nhau mỗi người một việc: Sơn Hà và Tuấn "Đét" cùng thủ quỹ Thanh Hà đi tiền trạm, Chí Đức lo việc thuê xe, tôi làm loong-toong. Hai ngày sau, nghe nói Thanh Hà bận công chuyện không đi được, nên cả hội rủ Đỗ Bình đi thay.
*
* *
Thứ bảy, ngày 6-3-2004, từ 7 rưỡi sáng, bốn bạn bay từ Hồ Chí Minh hôm trước ra là Việt Hà, Duy Đông, Lương "Đen" và Mai Đức đã bồn chồn đứng trên vỉa hè trước cửa 62 Nguyễn Chí Thanh ngóng chờ các bạn hữu của mình, đặc biệt là các bạn gái.

Một lát thì mọi người lục tục kéo đến. Sơn Hà mời cả nhà vào phòng khách cơ quan uống nước, nói chuyện và... làm quen, vì có rất nhiều bạn không nhận ra nhau. Ba mươi nhăm năm rồi còn gì! Tay bắt mặt mừng, cố tình không ai giới thiệu ai để mọi người thử trí nhớ của mình. Kìa, Thúy Liên đi cùng một bạn gái mặt tròn rạng rỡ niềm vui. Ai thế nhỉ? Bích Hạnh cười tươi cùng một mệnh phụ phu nhân và một cô bé tóc vàng xinh xắn cỡ 6-7 tuổi nhẹ nhàng bước xuống từ chiếc tắc-xi màu trắng (chiếc tắc-xi hơi chao nghiêng). Nhìn thoáng qua, ai cũng nghĩ chắc là người nhà Bích Hạnh cùng đi. Đến lúc vào tới phòng khách, mọi người mới té ngửa, đó là bạn Văn Việt Hoa (con gái bác Văn Tiến Dũng) và cô con gái thứ sáu của mình vừa từ Mát-xcơ-va về.

Còn kia là Quang Minh đèo chú Khuông, vị khách mời danh dự, đang tà tà tới. Chú Khuông trong bộ com-lê và chiếc mũ nồi màu xanh tím vẫn giữ được nét trẻ trung, thông minh, đạo mạo như ngày xưa, ngày chú mới có 32 tuổi. Chú thân mật bắt tay từng bạn. Chú nói đúng tên người đó đã đành, chú còn đọc vanh vách cả tên bố, mẹ, và "xê năm mấy" nữa ("xê" là viết tắt của C = Cục). Bích Hạnh khen Lương "Đen": "Bạn Lương về già trông đẹp trai ra" làm Lương "Đen" choáng váng trong giây lát. Đoán ra Duy Thanh đã khó, khó hơn là đoán xem con Duy Thanh học lớp mấy. Câu trả lời là bạn Duy Thanh mới cưới vợ lần đầu năm 2000, con mới được 10 tháng tuổi. Vợ chồng Khánh Bảo cũng là một ẩn số bí hiểm.

Đầu óc điện tử như Việt Trung mất 20 phút quay cuồng vẫn không sao nhớ nổi người đàn ông trung niên com-lê ca-ra-vát đang trịnh trọng bắt tay mình là ai. Vợ Khánh Bảo thì tất nhiên rồi, rất khó biết. Các bạn nữ ghé tai hỏi nhỏ "Ấy tên là gì nhỉ?", nhưng đáp lại là một nụ cười bẽn lẽn, bởi cô ấy không học Trường 15. Sở dĩ người nào biết được đấy là vợ chồng Khánh Bảo, là do có thông tin từ trước (qua điện thoại) rằng, Khánh Bảo sẽ đi cùng vợ. Trong các bạn gái, có Bế Ngọc Hà (tên ngắn gọn là Bế Hà) lần đầu xuất hiện, chính là người đi cùng Thúy Liên, cũng gây được những khó khăn nhất định cho các bộ óc lười động đậy của các trang nam tử. Vui, thật vui quá trời!

Nửa tiếng sau, ba chiếc xe từ từ khởi hành. Chú Khuông đề nghị nên rẽ qua đón cô Dậu cùng đi, mọi người nhất trí ngay. Tên đầy đủ của cô là Cấn Thị Dậu. Cô dạy chúng tôi hồi lớp 3 và lớp 4. Cô vốn là giáo viên giỏi của tỉnh Hà Tây, được Phòng giáo dục huyện Phúc Thọ giới thiệu về trường 15. Dọc đường đi, tất cả trò chuyện râm ran. Thúy Liên là người nhớ nhiều chuyện "thú vị" nhất, không chuyện gì bạn ấy không biết, không "ngõ ngách" nào bạn ấy không hay. Khi xe lên đến địa phận huyện Thạch Thất, chú Khuông bảo dừng xe, để chú xuống hỏi đường vào nhà cô Dậu, chúng tôi hơi lo lo. Thì ra, chú đã tới thăm cô Dậu vài lần, nhưng đã lâu không ghé qua, dân chúng bây giờ lại xây dựng tùm lum hết cả, nên không sao nhận ra vị trí nhà cô, phải hỏi thăm, bởi nhà cô chưa có điện thoại để liên lạc.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng hỏi thăm được nhà cô Dậu. Cô ngỡ ngàng vì tự nhiên có gần hai chục học sinh cũ quây quần xung quanh, cứ như từ trên trời rơi xuống. Cô tiến đến một bạn và hỏi :"Chí Đức phải không?", khiến lũ chúng tôi kinh ngạc, vì đúng là Chí Đức thật. Trông thấy Sơn Hà, cô hỏi tiếp: "Vũ Dũng phải không?". Cả lớp cùng cười vui. Một bạn gái nói: "Thưa cô, đây là Ngọc Hà...". Cô như vụt nhớ lại tất cả: "Ngọc Hà à?". Chúng tôi thấy cô khỏe nên mời cô cùng về thăm lại trường cũ. Cô ngần ngừ một lát, nhưng rồi dường như theo phản xạ tự nhiên, cô đồng ý ngay. Những dịp hội ngộ như thế này trong cuộc đời phải nói là vô cùng hiếm hoi.
Chúng tôi ghé qua nhà thầy Âu đón thầy đi cùng. Vả lại, một số bạn chưa biết nhà thầy Âu. Chỗ nhà thầy bây giờ gọi là Phố Quạt (hay Trạm Quạt), mặc dù chúng tôi không nhìn thấy một cái quạt nào.

Thầy Âu đã chuẩn bị sẵn nước chè và chè lam (cây nhà lá vườn) đón đoàn. Đặc sắc nhất là thầy còn bắt mấy phóng viên đệ tử quay vi-đê-ô toàn bộ chuyến đi của chúng tôi. Sau khi uống nước nói chuyện, cả hội đi bộ tắt qua làng Minh Nghĩa, xe ô tô chạy vòng ra đầu đằng kia đón. Lương "Đen" than thở :"Đã quá mày ạ!". Việt Hà kể, năm ngoái Lương "Đen" đã bức xúc như thế nào.

Chúng tôi cùng nhau chầm chậm bước đi trên con đường bê-tông dẫn vào làng. Ngày xưa, con đường này là con đường đất. Chỗ đầu làng có hai cái trụ bê-tông cấm xe ô-tô vào làng, sợ hỏng đường. Nhưng mỗi khi nghe báo tin có xe ô-tô tải chở những chiếc sào tre dài ngoẵng và lỉnh kỉnh loa đài cùng các hộp đựng phim hình tròn bằng thiếc màu trắng bạc là mấy thanh niên lực lưỡng làm nhiệm vụ bảo vệ thôn lại vác cuốc và xà-beng ra, nhanh nhẹn nhổ cọc, đón xe vào tận sân kho. Trẻ con kháo nhau ầm ĩ : "Tối nay có chiếu phim ở sân kho, chiều nhớ dặn bu thổi cơm sơm sớm!". Bọn chúng tôi có dịp tinh tướng bắt nạt trẻ con địa phương "mày mà không cho ông cái chạc ổi kia thì tối nay ông không cho mày xem phim!". Dọa dẫm vớ vẩn thế mà cũng có tác dụng ra phết (phim đâu phải của chúng tôi?).

Chú Khuông thuộc đường, phăng phăng đi phía trước, dẫn chúng tôi trở lại chốn xưa. Đường bê-tông đã thay thế con đường lát gạch nung già, xếp đứng sống, bắt chéo hình mũi tên. Mấy bụi tre rậm rịt cao vút gần nhà nam nhà nữ đều không còn. Khu vực nhà bếp, nhà ăn, sân gạch nhỏ – nơi chúng tôi thường bê chậu cơm quân dụng ra ăn ở đấy– cũng không còn. Lương "Đen", Mai Đức sải bước chân ra phía bờ ao nhà ông Biểu (hình như có hồi chị Nguyệt Nga nhà Mai Đức ở đấy). Cảnh vật không giống như in ngày xưa, song vẫn phảng phất đâu đây những hình bóng cũ. Mai Đức thốt lên: "Chỗ này ngày xưa có một cây sung sai quả lắm. Có cả những bậc thềm dẫn xuống ao. Mùa hè, bọn mình vẫn hay ra tắm ở đây...".

Lương "Đen" ngậm ngùi đế thêm: "Ừ, nhờ có cây sung mới cứu đói hồi 6-3...". Vài cậu thanh niên địa phương nghe bước chân người rậm rịch cũng ra bờ ao. Thấy chúng tôi sôi nổi bàn luận, một cậu tròn mắt gật đầu xác nhận, đúng là bên bờ ao trước đây có cây khế vươn mình trên mặt nước, còn bên bờ bên kia có cây quéo quả-không-bao-giờ-chín (ai cho chín mà đòi chín?), cùng một bãi cỏ nhỏ xâm xấp nước.

Tôi còn nhớ, mỗi khi những cơn mưa đầu mùa hạ bắt đầu rơi là cá rô lại rạch lên đầy bãi cỏ. Trông ngon ăn, nhưng bắt cá rô khó cực kỳ: chúng rạch những đường ngoằn ngoèo như rắn chạy, vây ánh màu thép, giương lên dũng mãnh, mang sắc nhọn, sẵn sàng đâm toạc bàn tay bé nhỏ của chúng tôi. Anh chàng nào tóm được con cá rô trong tay, đừng vội hí hửng tưởng bở. Càng bóp chặt càng chết! Nó chỉ cần quẫy mạnh một cái là thoát hiểm, đồng thời lưu lại một vết bầm thâm tím trên bàn tay như một dấu ấn kỷ niệm xót xa.

Lương "Đen" thì thào sám hối khi tới bên một ngôi nhà lúp xúp đứng cạnh bờ ao. Ngày xưa, cậu học trò nghịch ngợm dại dột định đốt "túp lều" đó, may mà rạ trên mái nhà ẩm quá, không bắt lửa. Nghĩ mà kinh. Giờ, nhà đã lợp ngói, rêu phong mốc meo trông khá phong trần. Các bạn gái cũng bồi hồi suy tưởng. Chúng tôi hò dô ta cùng đứng bên bờ ao chụp một kiểu ảnh chung. Cô Dậu vui vẻ kể lại chuyện Chí Đức và Sơn Hà bày trò hỏi cách giải bài tập toán để thử cô. "Chúng nó hỏi thế thôi, chứ thực ra đã biết cách giải rồi", cô nói. Sau, cô hạ của Chí Đức 2 điểm, từ 10 xuống 8, làm Chí Đức khóc rưng rức, xin lỗi mãi. Cô bảo, vài năm một lần, cô lại ra Hà Nội chơi. Lần nào cô cũng ghé nhà Quang Minh thăm cô Nguyệt và được Quang Minh đèo xe máy đi đây đi đó. Có lẽ nhờ thế mà cô vẫn thuộc tên lũ chúng tôi chăng?
*
* *
Rời Minh Nghĩa, chúng tôi lên ô tô về thăm Trường cấp hai Đại Đồng. Giờ gọi là Trường phổ thông cơ sở, không sao quen nổi. Thầy hiệu phó tên Phong (cùng tuổi Dậu, kém chúng tôi một giáp, là con cháu ở cái nhà có cái túp lều bác Tôm suýt bị Lương "Đen" làm thịt) trân trọng đón phái đoàn tại cổng trường. Thầy hiệu trưởng (tên Quốc, kém chúng tôi 1 tuổi) cùng cô Phương (đã quen từ hồi thăm trường lần trước) đón chúng tôi tại Phòng Hội đồng. Anh rất vui tính. "Thầy" khoan khoái kể lại ngày xưa đã đánh nhau với chúng tôi (chủ yếu ném củ đậu bay qua cửa sổ) như thế nào. Anh vẫn nhớ chú Khuông đã phải đi xin lỗi, hòa giải với dân làng ra sao.

Uống nước chè xanh, ăn quả quít đỏ, hút điếu thuốc lá, phả làn khói bay... xong, thầy hiệu trưởng xin phép phát biểu ý kiến. Trường ta sắp đón nhận Huân chương Lao động hạng hai. Nói chung, nhà trường rất cảm động về chuyến thăm lần trước, cũng như lần này của chúng tôi. Nhà trường đã thông báo lại với Ủy ban nhân dân xã về những nghĩa cử của các cựu học sinh Trường 15, đồng thời đã tổ chức phát phần thưởng cho một số học sinh nghèo vượt khó.

Chú Khuông đứng dậy phát biểu cảm ơn sự giúp đỡ, đùm bọc của chính quyền và nhân dân địa phương trong những tháng ngày gian khổ ác liệt đó. Chú tâm sự, chú thường bị cấp trên phê bình là "anh Khuông chiều trẻ con quá!". Điều làm chú lo nhất hồi ấy không phải là kết quả học tập của chúng tôi có tốt không, chúng tôi ăn có no không, chúng tôi mặc có ấm không, mà là chúng tôi có an toàn không. Vì đã xảy ra trường hợp chị Minh con bác Ngô Tấn Văn chết đuối ở sông Bằng Giang rồi. Mà ở nơi sơ tán thì có biết bao nhiêu điều mất an toàn rình rập: rắn cắn, chó dại cắn, trâu húc, tắm ao, trèo cây, dẫm phải dây thép gai bị uốn ván, điện giật, bom đạn...

Việt Trung giơ tay xin phát biểu, đề nghị nhà trường cho phép gửi vào tài khoản của trường 10 triệu đồng, hằng năm trích tiền lãi mua phần thưởng phát cho học sinh. Sau đó, tất cả ra sân trường chụp ảnh kỷ niệm. Chúng tôi may mắn vì Khánh Bảo "thuê" được một "thợ ảnh xịn" đi theo, là Khánh Bảo phu nhân. Chú Khuông thay mặt đoàn mời cả Ban Giám hiệu sang Thanh Phần cùng dự liên hoan, nhưng chỉ thầy Quốc đi được.
*
* *
Khi đoàn xe bỏ quốc lộ 32 rẽ vào con đường nhỏ gập ghềnh đi ngang qua cái lò gạch đang phả khói, tôi tin chắc những bạn bè của-tuổi-thơ-tôi tất cả đều đang bồi hồi cảm động. Làng Thanh Phần hiện ra sau lũy tre. Vẫn giếng nước đầu làng tần tảo. Xưa kia, làn nước tuy trong nhưng thi thoảng múc lên vẫn thấy lẫn vài cánh bèo tổ ong. Những hôm nắng gắt, chúng tôi đi đá bóng về, đứa nào đứa nấy mặt đỏ dừ, vục mặt vào gầu nước múc từ giếng lên, chao ôi là ngọt! Khánh Bảo nhận xét :"Hồi trước cái vành ngoài của giếng to hơn thì phải...".

Cạnh giếng có một vũng trồng khoai nước, lũ vịt con vàng đen loang lổ hay tíu tít tắm gội ở đây. Xuống xe, mọi người như trầm ngâm trong giây lát, chẳng ai buồn trêu chọc ai. Chiếc cầu xi-măng, nơi chứng kiến biết bao nhiêu cuộc tiễn đưa người ra đồng phải chăng vẫn thế, chưa một lần đúc lại? Bác Bẩm tiếp phẩm đã có lần bị rơi xuống từ chiếc cầu này, ướt lướt thướt như chuột lột. Cây gạo hoa đỏ cao vút ríu rít tiếng chim chào mào đâu rồi? Ruộng rau cần xanh mướt đâu rồi? Bên bờ ruộng cần, hình ảnh một con cá chuối mẹ mình dính đầy kiến lửa oằn mình vật vã đắm đuối vì con đang quẫy mạnh trong tâm trí chúng tôi.

Một người đàn ông mặc chiếc áo sợi màu lam ra tận bờ mương niềm nở đón chúng tôi. Khuôn mặt "quen quen", cái sự quen của ba mươi nhăm năm trước. Chịu, không tài nào đoán nổi đấy là ai. Qua cử chỉ vồn vã thân tình của anh, chỉ có thể cảm nhận đó là người trong-gia-đình. Ánh mắt anh như muốn nói "lạ gì các ông các bà, thôi, vào nhà tôi chơi đi!". Thì ra đó là Phú, một thiếu niên lớn tuổi hơn chúng tôi (và rắn rỏi hơn, đương nhiên rồi), có nước da bánh mật, bơi chó vào loại giỏi, hay gạ chúng tôi chơi trò đánh đáo khe ăn tiền. Mỗi khi thua, đôi mắt lá răm của Phú thường đỏ ngầu lên như mắt trâu điên. Nhưng phải công nhận, "hắn" rất biết cách rút kinh nghiệm để phục thù. Hôm nay, trông "hắn" lành hơn rất nhiều. Sơn Hà kéo cả Phú và mọi người sang nhà bên (nhà Thơ) để liên hoan. Về sau, chúng tôi mới biết Phú và Thơ là hai anh em cùng cha khác mẹ.

Chúng tôi bước vào cổng nhà Thơ. Gần chục chiếc chiếu hoa trải kín mặt sân gạch. Tiếng chào hỏi râm ran khắp xóm, những cái bắt tay thân mật vồn vã, những lời thăm hỏi ân tình. Tiếng những người đàn ông ồm ồm giục các bà các cháu "nhanh tay lên". Mọi người cùng ngồi xuống chiếu uống chén rượu mừng ngày tái ngộ. Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn. Mấy cái giao thừa xa xưa, tại cái làng này chúng tôi học những câu thơ chúc Tết của Bác Hồ qua làn sóng đài phát thanh.

Vị đại diện xã đứng lên thưa mấy lời. Chú Khuông đáp lễ. Tất cả cùng hồ hởi nâng cốc. Bữa cơm thân mật có thịt chó bảy món đặc sản vùng Sơn Tây, thịt gà ta chắc mà thơm, xôi nếp đậu xanh vàng ruộm. Có cả món củ chuối nấu lẫn xương nâu nâu đựng trong những chiếc bát "nhà quê" gợi nhớ một thời kỳ gian khó. Bích Hạnh cầm một túi ny-lông bánh mì to đùng phân phát cho trẻ con những nhà chung quanh. Duy Đông hỏi thăm quê Nguyễn Cao Kỳ ở gần đấy. Thật không ngờ, Đông bảo, cấp trên đã tính kỹ rồi. Trường 15 đặt tại làng Thanh Phần thì sẽ chỉ nhìn thấy máy bay Mỹ bay qua, chứ chả bao giờ bị ném bom, vì khu vực đó gần quê nội Nguyễn Cao Kỳ.

Việt Hà nhớ tới cây si sau bếp, quả rụng đỏ ối. Mấy bạn nữ nhớ những chiếc hầm "chữ A" đào dưới gốc tre già, mái phủ một lớp bùn trộn rơm dày cộp. Lương "Đen" hồi tưởng lại các phi vụ đem bánh bao đổi lấy khoai xát nhà Phú. Các bạn gái nhớ món khoai lang luộc ngược nồi trên sân đất sét (khoai rửa sạch, rải ra đất, nồi đất úp ngược lên, đốt rơm xung quanh). Mấy cậu bé người làng – trông già hơn chúng tôi, nhưng trót khai ra, ít hơn chúng tôi 3 tuổi – ngồi cùng mâm chép miệng kể, hồi ấy trông thấy đường sữa của chúng tôi mà thèm. Được cái, thày u đã dặn đi dặn lại là không được ăn trộm. Ai đó buột mồm nhắc đến nước chè xanh. Phú bảo "có ngay" và phấn khích giục mấy bà mấy chị nhanh nhảu vào bếp luộc ngay một nồi khoai lang và đun nước chè tươi đãi khách.

Ăn trưa xong, cả bọn tranh thủ kéo nhau ra cánh đồng. Quả là làng này nhiều thứ thay đổi, nhưng cũng có thứ "không thay đổi ". Duy Đông đã kịp quan sát thấy chiếc hố xí hai ngăn ở bờ làng vẫn nằm nguyên chỗ cũ (giờ đã xây gạch). Chúng tôi lần hồi bước đi trên con đường đất nhỏ dẫn ra con sông đào, nơi thầy Kền kèm cặp chúng tôi tập bơi hồi trước. Gió thoang thoảng mùi lúa mới cấy, xen lẫn cả mùi ngây ngây của phân chuồng bón lót trên các chân ruộng. Hồ nước nhỏ gần con sông, là chỗ chúng tôi hay tráng người mỗi khi ở dưới sông đào lên, đã biến thành ruộng lúa. Hồi ấy, hồ nước nằm giữa cánh đồng nên đỉa rất nhiều, toàn đỉa đói. Khỏa bàn tay xuống nước, ngay lập tức đỉa từ các nơi nhanh nhẹn bơi đến vì ngửi thấy hơi người, trông như những chú đòng đòng con đen trùi trũi. Sợ nhất là để đỉa chui vào lỗ tai làm tổ trong đầu, đến một ngày đẹp giời nào đấy, chỉ cần vỗ nhẹ vào đầu một cái là cái đầu bị bửa ra, bên trong toàn đỉa là đỉa (!?).

Cô bé con Tây (quốc tịch Nam Tư) tung tăng chạy nhảy ngắm nhìn đàn bò tha thẩn gặm cỏ ven bờ sông, miệng líu ra líu ríu. Từ xa, chúng tôi nhìn thấy cây cầu cũ kỹ bắc ngang sông đào. Mọi kỷ niệm ấu thơ lại ùa về sống động. Đi dọc theo con sông đào là đường dẫn về Hà Nội. Đăng Thảo, Duy Thanh, Hiếu Liêm... ít nhiều đều đã vài ba lần trốn trại theo con đường này. Và lần nào cũng bị bắt quay trở lại. Hồi ở Cao Bằng, tôi nghe một số bạn kể lại "ai hư sẽ bị bắt quỳ trên gai mít", nhưng thành thực mà nói, mắt tôi chưa nhìn thấy cảnh ấy bao giờ. Còn ở Thanh Phần, tôi không nhớ rõ là những người trốn trại có bị chịu "hình phạt" gì không.

Quay trở lại làng Thanh Phần, chúng tôi ghé vào thăm nhà Phú. Trước, nhà chỉ vò võ mỗi hai mẹ con. Bà cụ mẹ Phú nay đã già, lưng còng, đang bế cháu ngồi ngoài hè, có ý nhường ghế trong nhà cho chúng tôi. Thấy chúng tôi vào sân, bà cụ đứng dậy chào. Khuôn mặt bà đọng nhiều vết nhăn, vẫn đầy vẻ cam chịu như ngày xưa. Phú đích thân bưng từng đĩa khoai lang nóng hổi mời chúng tôi ăn. Nước chè xanh sóng sánh thơm ngát, hớp một hớp, đọng lại dư âm chan chát nơi đầu lưỡi. Phú bảo, chưa bao giờ anh cảm thấy sung sướng đến thế. Chúng tôi trêu chọc anh, đùa cợt anh, anh hớn hở gật đầu nhận hết, với vẻ "nhẫn nhục" chưa từng có. Anh xin phép nói đôi lời trước lúc chia tay, đại ý, tuần sau đám cưới con út anh, nếu các bác nào tiện đường ghé qua dự được, xin mời.

Trên đường về, ngồi trên ô-tô, Thúy Liên thì thầm kể chuyện ngày xưa Phú "láo" như thế nào. Phú trông thấy bọn con gái đi tắm gội ở giếng về, liền tra khảo: "Cái gì đây?". Các bạn gái ngoan cường trả lời: "Về mà hỏi em gái mày ấy!". Chắc Phú hồi ấy trông ngầu quá, không bạn nào dám mắng Phú là "đồ mất dậy!". Chuyện của Thúy Liên chưa hết. Nhân nhắc đến đề tài "đỉa", các bạn gái chăm chú lắng nghe Thúy Liên kể, bạn Thành có lần bị đỉa xâm phạm thân thể, phải tiến hành tiểu phẫu thuật như thế nào. Bọn con trai có nghe được chỉ là đồ nghe lỏm!