Làng Thanh Phần
Tôi cũng không rõ vì sao chúng tôi lại chuyển địa điểm sơ tán về huyện Phúc Thọ, Hà Tây. Chỉ biết lớp 3 và lớp 4 chúng tôi học ở làng Thanh Phần (có người nhớ là Thành Phần). Đầu làng có một cái giếng rất to xây bằng đá ong, nước không trong lắm, thả bèo hoa dâu. Giếng hình tròn, đường kính giếng dễ phải tới 8-9 mét. Gần giếng có một cây gạo hoa đỏ rực, đầu mùa hè chim chào mào hay về ăn hoa gạo. Trại sơ tán dựng nhà ở, nhà ăn, bếp và lớp học trên mảnh đất đầu làng, phía bên ngoài luỹ tre. Một số bạn vẫn ở nhờ nhà dân. Nhà ở chúng tôi vách liếp, lợp lá, nền đất. Giường là những tấm phản kê trên mễ.
Cạnh nhà ăn có một mảnh đất rộng, chúng tôi cải tạo thành vườn rau. Mùa hè trồng rau muống, mùa rét trồng su hào, rau cải. Phải đi lấy nước phân lợn về hoà với nước giải để tưới rau. Mấy bạn trai còn “sáng kiến” đi hót phân trâu về ủ trong hố nước giải để tăng “chất bổ” cho rau. Đi chơi đâu, nếu thấy bãi phân trâu thì phải nhanh tay cắm một cành lá vào đó để xí phần.
Hè đến, chúng tôi hay ra đầm sen (chỉ có lác đác sen) ngụp lặn mò trai, hay ra con sông đào xúc hến về cải thiện. Chúng tôi học bắt cua ngoài đồng. Ai cũng đen nhẻm, nhưng vui. Có lần, thò tay nhầm vào hang rắn, sợ chết khiếp. Chúng tôi bắt cả châu chấu, cào cào, lươn, trạch, chão chuộc, đi hôi cá, đi cất vó, đi câu tôm ở giếng làng, đi bắn chim sâu, chim sẻ, chim chào mào về ăn. Có lần còn đi bắn cả cò. Chẳng phải đói ăn, mà chỉ vì sống ở trong một cái làng đồng quê Bắc bộ, những “trò” ấy quá bình thường.
Trại có nuôi gà và lợn để tận dụng thức ăn thừa. Có lần, bác Tám mắng mấy cậu đang bốc cháy ăn :”Chúng mày không để phần lợn với à?”. Hồi cô Nguyệt về thay cô An làm y sĩ, thỉnh thoảng chúng tôi được ăn mì thanh Ba-lan luộc, chan nước thịt gà, cứ gọi là sướng như tiên. Sau này, cô Nguyệt không liên hệ xin được mì Ba-lan nữa, chúng tôi phải tự cán lấy mì sợi. Khác với hồi ở Cao Bằng, hồi này chúng tôi ăn độn bột mì, thỉnh thoảng mới ăn ngô bung, hoặc bánh đúc ngô cho bữa sáng.
*
* *
Các thày các cô dạy chúng tôi là : thày Kền, thày Hán, cô Hiểu, sau thêm cô Dậu, cô Mai, thày Thọ. Chú Khuông phụ trách lớp dưới, đóng bên Minh Nghĩa, phía bên kia đường nhựa. Ban đầu, các lớp học đều trực thuộc Phòng giáo dục huyện, về sau có quyết định thành lập Trường 15 (tên đầy đủ là Trường phổ thông cấp 1 số 15, còn gọi theo phiên hiệu trong quân đội là trường T-15), trên mới cử thày Thọ về làm Hiệu trưởng. Chính thày là người sáng tác bài Trường ca 15. Tôi còn nhớ một đoạn :
Trường chúng ta từ bốn phương trời,
Về đây vui cùng chung sống
Về đây hát khúc ca vang kết đoàn...
Mười lăm ! Đây trường ta yêu mến,
Mười lăm ! Đây trường ta yêu quý...
Thày Thọ về trường hình như hồi chúng tôi lên lớp 4. Thày vui tính nhưng nghiêm khắc, có lẽ thày là đảng viên. Thày đưa cả “cô giáo” lên ở tại trường. Hồi ấy, thày cô sắp có em bé (sau đặt tên là Quốc Quân thì phải). Thày Hán dong dỏng trăng trắng, cô Hiểu người thấp, trán cao, da nâu, tóc dài chấm gối, dạy lớp trên.
Thày Kền dạy lớp chúng tôi. Tên đầy đủ của thày là Trần Hùng Kền, nhưng thày ghi trong quyển sổ chép bài hát là Trần Hải Anh. Người thày thấp đậm, ngực nở, bụng thon, đùi dế, miệng rộng, hay cười, mắt sáng, nói chuyện có duyên, dễ mến, có má lúm đồng tiền, phải nói là đẹp trai. Thày có một tấm ảnh “màu”, tức là ảnh chân dung trắng đen cỡ 3x4, nhưng thợ ảnh dùng màu mè bôi lên cho đẹp. Mà đẹp thật. Quân hàm hạ sĩ màu đỏ chói, áo bộ đội xanh tươi như tàu lá chuối, má phơn phớt hồng trông như văn công, ngôi sao vàng gắn trên mũ. Thày mê ca hát, thường không bỏ sót một buổi Dạy hát nào trên đài, lúc 1 giờ rưỡi chiều chủ nhật. Thày chăm chú ghi lại nốt nhạc (chắc thày có được học ký xướng âm), lời bài hát, cẩn thận học thuộc bài hát đó và tối đến dạy lại cho chúng tôi. Những bài như: Phi đội ta xuất kích, Về đây với đường tàu, Nổi trống lên rừng núi ơi, Người Châu Yên bắn máy bay, Cô gái vót chông... là chúng tôi học ở thày. Một kỷ niệm khó quên là trong khi đọc nhạc bài hát, có lần cô phát thanh viên đọc: la đen gạch nhịp, bị chúng tôi biến tướng thành Lương đen gạch nhịp, để trêu bạn Võ Hiền Lương.
Trước cửa nhà ở của nam có mảnh đất trống. Thày bỏ mấy ngày nghỉ hì hục làm cho chúng tôi một chiếc xà đơn bằng tre và vầu, chúng tôi đua nhau tập co tay kéo xà, ke bụng. Thày làm cả tạ để tập hàng ngày. Thày Kền còn dạy cho chúng tôi bơi vì sợ có ngày chúng tôi đi chơi sa xuống ao hồ. Hôm ấy, thày bắt tất cả con trai quần đùi áo may ô (xin lỗi, cởi trần) ra con sông đào. Chúng tôi xếp hàng ngang, dọc theo con sông. Thày Kền cũng cởi trần trùng trục, nói dõng dạc :
- Hôm nay, chúng ta học bơi. Tôi nói trước, khi xuống nước, nếu “anh” nào mà bám lấy tôi thì tôi sẽ đánh cho ngất đi rồi mới cứu. Nhớ chưa ? Thôi, bắt đầu !
Thày tóm lấy một bạn to khoẻ nhất, cầm chân cầm tay như tóm một con ếch và vứt tùm xuống sông. Anh bạn tội nghiệp kia lóp nga lóp ngóp được vài phút thì bắt đầu chới với. Thày nhảy ùm xuống sông, bơi rất dũng mãnh lại gần và tóm tóc lôi vào bờ. Thày hỏi:”Đã uống nước chưa?”. Anh bạn, bụng có vẻ phinh phính, thiểu não đáp: ”Dạ...rồi...rồi ạ”. Thày quay sang đám chúng tôi, từ nãy đến giờ vẫn đứng nghiêm bên bờ sông mục kích “bài học bơi” và đanh giọng :
- Người tiếp theo !
Mặt chúng tôi xanh hết cả lại.
Ấy thế mà rồi chúng tôi cũng biết bơi cả, chẳng có ai chết đuối, ngoại trừ một lần “suýt”. Lần ấy là vào dịp hè, nhiều bạn đã về nghỉ hè, cuối tháng tám mới phải lên, nhưng cũng có bạn do gia đình neo người nên cho lên trại sớm. Bạn Đức Thành là một bạn như vậy. Mẹ bạn khá chiều chuộng nên một lần, tôi nhớ là bạn giận mẹ vì đã không mang đường hay sữa gì đó lên (mà bạn đã viết thư dặn mẹ rồi), liền xông ra con mương bao quanh sân kho hợp tác để... tự tử. Đức Thành bơi khá, con mương chỉ nông... có đến rốn, nên Đức Thành phải mặt cúi xuống, ngụp hẳn đầu xuống mương, mãi mà không chết đuối, vì cứ khi nào ngạt thở, bạn ấy lại ngẩng đầu lên, gào ầm ầm:”Ôi, có người chết đuối !”. Đâm ra, tự tử không thành. Chúng tôi được một phen cười tưởng vỡ cả bụng.
Nhờ biết bơi mà có lần bạn Liêm thoát hiểm. Hôm ấy, đi hái trộm khế ở gần bờ ao, cành khế gãy, Liêm tự bơi được vào bờ bên kia. Ở bờ bên này, chú chó dữ tợn của chủ nhà cứ lồng lộn sủa ầm ĩ.
Trong các chuyện về thày Kền thì chuyện thày bị mất đạn là ấn tượng nhất. Tôi quên nói là hồi đó các thày được phát súng (CKC hay AK gì đó), nhưng không thấy các thày bắn máy bay bao giờ. Một dạo, quan hệ giữa thày Kền và lũ chúng tôi có vẻ căng thẳng hơn bình thường. Lý do là chúng tôi quá quắt hơn trước, nghịch ngợm hơn trước, thậm chí vô kỷ luật hơn trước, có dấu hiệu “nổi loạn”. Cho nên thày cũng có phần nghiêm khắc hơn. Hôm ấy, có lẽ bạn trai nào đó đã ăn cắp đạn của thày. Buổi chiều, sau khi phát hiện ra đã bị mất hai viên đạn, thày lập tức xuống khu nhà ở của chúng tôi và gầm lên, quyết tìm ra thủ phạm. Một số bạn đi học bài trên lớp hay đi chơi vắng, thày bắt mọi người đi tìm về. Đến 5 rưỡi, thày thổi còi ra lệnh tập hợp trước sân và cảnh cáo những ai không chịu ra “đầu thú” sẽ phải chịu những hình thức kỷ luật nặng nề. Chúng tôi vẫn đứng nghiêm trên sân, không nhúc nhích. Thày liền về nhà bỏ quần áo ngoài, chỉ mặc độc quần đùi áo lót, đi bít tất, mang giày ba ta, lắp thêm lưỡi lê vào đầu khẩu súng và bỏ mặc chúng tôi đứng như trời trồng ngoài sân. Thày sục lưỡi lê trần vào trong từng gầm giường của chúng tôi và liên tục bảo: ”Ra ngay, ra ngay!”, làm chúng tôi ớn lạnh. Sau đó thày còn sục cả lưỡi lê vào hầm trú ẩn cạnh nhà. May mà chẳng có ai nấp ở đấy. Thực ra thì có mấy bạn đang nấp trên mái nhà (cả bạn phạm lỗi và bạn không phạm lỗi), nằm im thin thít, không ai dám xuống vì thấy thày đang nóng quá. Cuối cùng, chúng tôi phải chịu hình phạt đứng ở sân thay cho người khác, đến 10 giờ 30 mới được đi ngủ. Hai hôm sau, hình như bạn nào đó đã lén trả lại hai viên đạn về vị trí ban đầu của nó.
Mãi sau này, khi chúng tôi trưởng thành, học xong đại học thì mới biết tin. Năm 1969, trường 15 giải thể, thày Kền tình nguyện xung phong đi chiến đấu ở chiến trường B (chiến trường miền Nam), được phân về binh chủng xe tăng. Nghe nói mùa xuân 1975, xe tăng của thày bị trúng cả một quả đạn chống tăng. Chúng tôi lặng người đi và ân hận mãi về những điều dại dột đã làm.
*
* *
Nhớ về trường 15, chúng tôi cũng hay nhắc tới bác Thiết. Phần vì bác là mẹ bạn Mạnh Hà, nhưng chủ yếu là vì bác đã gắn bó với chúng tôi suốt từ hồi ở Cao Bằng. Bác phụ trách việc tắm rửa cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Ngoài ra, bác hay giúp nhà bếp cọ rửa xoong nồi, đĩa chảo.
Trời mùa đông, bác đun một thùng nước nóng và đổ ra một chiếc chậu lớn. Nếu không bắt được “bọn con trai”, thì bác sẽ thuyết phục “bọn con gái” tắm trước. Khi đi tắm, mỗi người phải tự chuẩn bị áo quần để thay và khăn lau. Khi bác Thiết hô tên đứa nào thì đứa đó phải nhanh chóng cởi quần áo ra, chui vào buồng tắm. Nhiều bạn ngượng nên bị bác “mắng” cho sát sạt :”Ôi, cứ làm như của báu lắm ấy ! Cởi ra !”. Gặp phải ai lười tắm nhiều ghét, bác sát xà phòng đến nơi đến chốn, sau đó vừa kỳ vừa dội nước cho, lại vừa nói oang oang như là kể chuyện, làm kẻ đó chỉ muốn chui xuống đất. Một lần, đến phiên “bọn con gái” tắm, chúng tôi ngồi trong nhà cười khúc khích vì nghe thấy bác tiếng đang “bình luận” về các bạn gái cùng lớp của mình :”Gớm, mấy đứa con gái chúng mày, chẳng có đứa nào trắng bằng cái mông thằng Sơn Hà!”. (Xin lỗi Sơn Hà). Bác Thiết được các bà mẹ tin cẩn gửi tiền nhờ mua hộ trứng gà, trứng vịt bồi dưỡng thêm cho các cháu. Bác chậm rãi đeo mục kỉnh, lập danh sách những người được ăn thêm trứng và cẩn thận lấy bút chì đánh dấu trứng của từng người, sợ lẫn. Đến hôm luộc trứng, bác lại “réo” danh sách để những người sắp tẩm bổ ở tư thế sẵn sàng.
Bác là người lo cho chúng tôi giấc ngủ trưa ngủ tối, khâu vá, đơm khuy cho lũ chúng tôi. Nếu ai đó trong chúng tôi bị ốm, thì cô An (sau là cô Nguyệt) là người phát thuốc khám bệnh, còn bác Thiết là người lo nấu cháo thịt và dỗ dành. Bạn Đăng Thảo kiêng ăn thịt bò, bác biết vậy nên mỗi lần nhà bếp liên hoan món thịt bò, bác lại nhắc nhà bếp nấu một suất ăn riêng cho bạn Thảo.
Có một dạo, cô Mai, mẹ bạn Đỗ Bình cũng “rửa ráy” cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Nhưng vì cô phục vụ lớp dưới nhiều hơn, nên kỷ niệm về cô không sâu đậm như những kỷ niệm về bác Thiết.
*
* *
Cô An là y sĩ của trường 15, nhưng đôi khi cô đóng luôn cả vai trò cô giáo, vì cô thường lên lớp cho chúng tôi môn ngoại khoá: y học thường thức và vệ sinh công cộng. Học đi đôi với hành ngay tắp lự. Cô đốc thúc chúng tôi quét tước nhà cửa, vun rác, đốt rác, mở chiến dịch phun thuốc DDT diệt ruồi muỗi. Đích thân cô đi kiểm tra nhà tắm, nhà xí, nhà ăn. Chỗ nào chưa sạch là mất điểm thi đua như chơi. Chiều thứ ba hàng tuần, cả lớp tập trung dưới lũy tre ngay trước phòng y tế, cô An mặc áo bờ-lu trắng, cầm quyển vở đứng trước bảng đen và dạy chúng tôi. Cô soạn giáo án nghiêm túc, không đùa được. Chữ cô tròn, đẹp, rõ ràng, không thể đánh đồng với “chữ bác sĩ”. Môn học này Bộ giáo dục không quy định, nhưng cô đề nghị với nhà trường cứ xếp lịch để cô dạy, có lẽ vì cô coi chúng tôi như đang ở trong một đơn vị quân đội. Nhờ thế, chưa bao giờ xảy ra dịch bệnh gì trong trường.
Cô Nguyệt về thay cô An đi học bác sĩ. Cô là mẹ bạn Quang Minh. Cô trông trẻ hơn cô An và không nghiêm bằng cô An, nhưng cũng là người rất trách nhiệm. Cô kiểm tra dụng cụ nhà bếp kỹ lưỡng, từ con dao thái thịt đến từng cái chậu nhôm đựng cơm. Chiều thứ bảy nào, nhà bếp cũng đun một thùng nước nóng to để nhúng bát đũa và các dụng cụ nấu ăn. Sau này, chúng tôi đi sơ tán lần hai (năm 1972), mới thấy “trường 15 mình” thật sạch sẽ, vì ở chỗ khác, có ai làm cẩn thận như vậy đâu. Những lúc rỗi việc, cô Nguyệt lại xắn tay xuống bếp cùng nặn bánh bao, giã cua, nhặt hến... với bác Tám, cô Nhâm. Những hôm trời mưa, đường làng bê bết bùn, cô hay đi đôi ủng cao su màu đỏ. Đến nỗi bây giờ nhớ lại, tôi cứ luôn hình dung cô đang đi ủng trước mặt tôi vậy.
*
* *
Những tháng ngày ở Thanh Phần đã giúp chúng tôi có những hiểu biết cực kỳ bổ ích về cuộc sống nông thôn. Làng có nhiều loại hoa quả: ổi, bưởi, doi, na, khế... thông thường, nhưng quả chay chẳng hạn, tôi tin là bây giờ không có nhiều người thành phố biết đến. Có nhiều con vật: trâu bò, gà vịt, ngan ngỗng... nhưng mấy ai đã “được” ngỗng đuổi, cắn cho tím bầm, thậm chí chảy máu như chúng tôi. Rồi những con cào cào to bằng quả chuối tây, con dế trũi đầu to bằng ngón tay cái, chắc bây giờ chỉ còn trên sách vở. Chúng tôi được tận mắt xem đâm trâu (thực ra là mổ thịt trâu, vì con trâu ấy bị “lòi dom”), thui chó bằng rơm, bẫy chim sẻ bằng lưới, cảnh chăn vịt đàn, bắt cá rô rạch từ đồng lên bãi cỏ, câu cá chuối trong những buổi mưa giăng màn, dùng phi tiêu đâm cá mè; được thưởng thức những món ăn dân dã : châu chấu rang, cá rô bọc đất sét nướng, khoai lang mật, thịt ếch xào chuối xanh, cá kho sung...; được ăn chung nồi cơm gạo mới với người nông dân, gặt từ ngoài đồng về; được ngắm thoả thích vầng trăng sáng trên sân kho hợp tác mênh mông... ; được biết thế nào là rét căm căm, khoác áo tơi ra đồng, trên tay là ống bơ nhỏ đựng mấy cục than củi đỏ rực làm lò sưởi; được trải qua nỗi hân hoan vô bờ bến khi “hôi” được con cá to, hay câu được con tôm trong suốt bám vào thành giếng làng, mồm con tôm chỉ ngậm mồi chứ không hề cắn.
Ham chơi như vậy nhưng chúng tôi học ra trò. Các kỳ thi học sinh giỏi văn toán cấp huyện, trường 15 đều có đại diện tham gia và đoạt giải cao. Năm lớp 4, chúng tôi có hai bạn được đi thi cấp tỉnh. Thày Kền mượn chiếc xe thồ của bác Bẩm, đèo cả hai bạn (mỗi bạn ngồi một sọt) và một bao gạo lên Hát Môn tập trung ôn và thi tại đó. Tiếc rằng, hai bạn không giành được giải rút gì, vì tiếng là thi học sinh giỏi tỉnh Hà Tây, nhưng các “đối thủ” đều là người Hà Nội sơ tán.
Nếu ai đó hỏi chúng tôi, những ngày bom đạn đó chúng tôi có sợ không thì xin thưa, có sợ. Nhưng nỗi lo sợ chỉ thoảng qua những khi máy bay “Thần sấm”, “Con ma” gầm rít trên trời. Còn khi báo yên rồi thì lại tiếp nối một chuỗi đời học sinh rong chơi, có vẻ hơi vô tư lự, nhưng đầy khao khát khám phá những điều kỳ lạ của cuộc sống. Cũng như hỏi chúng tôi có nhớ bố mẹ không, thì phải nói là có. Nhưng cũng lại phải nói một cách công bằng là chúng tôi không có thì giờ để ngồi nhớ nhung, buồn bã, uỷ mị, mà chúng tôi – những đứa trẻ hiếu động – rủ nhau đi tìm hiểu và tiếp xúc với thế giới xung quanh chúng tôi, đó là cái làng Thanh Phần. Đến chủ nhật, nếu bố mẹ lên thì thật là hạnh phúc, còn nếu không, chúng tôi cũng không tỏ ra buồn bã một cách cực đoan. Phần vì chúng tôi quen với điều đó rồi, phần vì chúng tôi cũng “có chỗ để mà đi chơi”.
Tư tưởng khám phá xung quanh cũng một phần do ảnh hưởng của các cuốn sách có trong thư viện trường, như : Chú người gỗ, Cuộc phiêu lưu của Ca-rích và Va-li-a, Đảo giấu vàng, Rô-bin-sơn Crút-xô, Hai vạn dặm dưới đáy biển, Du hành trong tiểu vũ trụ... mà các thày cô khuyến khích chúng tôi đọc.
Trích từ Diễn đàn www.vnkatonak.com.
Tôi cũng không rõ vì sao chúng tôi lại chuyển địa điểm sơ tán về huyện Phúc Thọ, Hà Tây. Chỉ biết lớp 3 và lớp 4 chúng tôi học ở làng Thanh Phần (có người nhớ là Thành Phần). Đầu làng có một cái giếng rất to xây bằng đá ong, nước không trong lắm, thả bèo hoa dâu. Giếng hình tròn, đường kính giếng dễ phải tới 8-9 mét. Gần giếng có một cây gạo hoa đỏ rực, đầu mùa hè chim chào mào hay về ăn hoa gạo. Trại sơ tán dựng nhà ở, nhà ăn, bếp và lớp học trên mảnh đất đầu làng, phía bên ngoài luỹ tre. Một số bạn vẫn ở nhờ nhà dân. Nhà ở chúng tôi vách liếp, lợp lá, nền đất. Giường là những tấm phản kê trên mễ.
Cạnh nhà ăn có một mảnh đất rộng, chúng tôi cải tạo thành vườn rau. Mùa hè trồng rau muống, mùa rét trồng su hào, rau cải. Phải đi lấy nước phân lợn về hoà với nước giải để tưới rau. Mấy bạn trai còn “sáng kiến” đi hót phân trâu về ủ trong hố nước giải để tăng “chất bổ” cho rau. Đi chơi đâu, nếu thấy bãi phân trâu thì phải nhanh tay cắm một cành lá vào đó để xí phần.
Hè đến, chúng tôi hay ra đầm sen (chỉ có lác đác sen) ngụp lặn mò trai, hay ra con sông đào xúc hến về cải thiện. Chúng tôi học bắt cua ngoài đồng. Ai cũng đen nhẻm, nhưng vui. Có lần, thò tay nhầm vào hang rắn, sợ chết khiếp. Chúng tôi bắt cả châu chấu, cào cào, lươn, trạch, chão chuộc, đi hôi cá, đi cất vó, đi câu tôm ở giếng làng, đi bắn chim sâu, chim sẻ, chim chào mào về ăn. Có lần còn đi bắn cả cò. Chẳng phải đói ăn, mà chỉ vì sống ở trong một cái làng đồng quê Bắc bộ, những “trò” ấy quá bình thường.
Trại có nuôi gà và lợn để tận dụng thức ăn thừa. Có lần, bác Tám mắng mấy cậu đang bốc cháy ăn :”Chúng mày không để phần lợn với à?”. Hồi cô Nguyệt về thay cô An làm y sĩ, thỉnh thoảng chúng tôi được ăn mì thanh Ba-lan luộc, chan nước thịt gà, cứ gọi là sướng như tiên. Sau này, cô Nguyệt không liên hệ xin được mì Ba-lan nữa, chúng tôi phải tự cán lấy mì sợi. Khác với hồi ở Cao Bằng, hồi này chúng tôi ăn độn bột mì, thỉnh thoảng mới ăn ngô bung, hoặc bánh đúc ngô cho bữa sáng.
*
* *
Các thày các cô dạy chúng tôi là : thày Kền, thày Hán, cô Hiểu, sau thêm cô Dậu, cô Mai, thày Thọ. Chú Khuông phụ trách lớp dưới, đóng bên Minh Nghĩa, phía bên kia đường nhựa. Ban đầu, các lớp học đều trực thuộc Phòng giáo dục huyện, về sau có quyết định thành lập Trường 15 (tên đầy đủ là Trường phổ thông cấp 1 số 15, còn gọi theo phiên hiệu trong quân đội là trường T-15), trên mới cử thày Thọ về làm Hiệu trưởng. Chính thày là người sáng tác bài Trường ca 15. Tôi còn nhớ một đoạn :
Trường chúng ta từ bốn phương trời,
Về đây vui cùng chung sống
Về đây hát khúc ca vang kết đoàn...
Mười lăm ! Đây trường ta yêu mến,
Mười lăm ! Đây trường ta yêu quý...
Thày Thọ về trường hình như hồi chúng tôi lên lớp 4. Thày vui tính nhưng nghiêm khắc, có lẽ thày là đảng viên. Thày đưa cả “cô giáo” lên ở tại trường. Hồi ấy, thày cô sắp có em bé (sau đặt tên là Quốc Quân thì phải). Thày Hán dong dỏng trăng trắng, cô Hiểu người thấp, trán cao, da nâu, tóc dài chấm gối, dạy lớp trên.
Thày Kền dạy lớp chúng tôi. Tên đầy đủ của thày là Trần Hùng Kền, nhưng thày ghi trong quyển sổ chép bài hát là Trần Hải Anh. Người thày thấp đậm, ngực nở, bụng thon, đùi dế, miệng rộng, hay cười, mắt sáng, nói chuyện có duyên, dễ mến, có má lúm đồng tiền, phải nói là đẹp trai. Thày có một tấm ảnh “màu”, tức là ảnh chân dung trắng đen cỡ 3x4, nhưng thợ ảnh dùng màu mè bôi lên cho đẹp. Mà đẹp thật. Quân hàm hạ sĩ màu đỏ chói, áo bộ đội xanh tươi như tàu lá chuối, má phơn phớt hồng trông như văn công, ngôi sao vàng gắn trên mũ. Thày mê ca hát, thường không bỏ sót một buổi Dạy hát nào trên đài, lúc 1 giờ rưỡi chiều chủ nhật. Thày chăm chú ghi lại nốt nhạc (chắc thày có được học ký xướng âm), lời bài hát, cẩn thận học thuộc bài hát đó và tối đến dạy lại cho chúng tôi. Những bài như: Phi đội ta xuất kích, Về đây với đường tàu, Nổi trống lên rừng núi ơi, Người Châu Yên bắn máy bay, Cô gái vót chông... là chúng tôi học ở thày. Một kỷ niệm khó quên là trong khi đọc nhạc bài hát, có lần cô phát thanh viên đọc: la đen gạch nhịp, bị chúng tôi biến tướng thành Lương đen gạch nhịp, để trêu bạn Võ Hiền Lương.
Trước cửa nhà ở của nam có mảnh đất trống. Thày bỏ mấy ngày nghỉ hì hục làm cho chúng tôi một chiếc xà đơn bằng tre và vầu, chúng tôi đua nhau tập co tay kéo xà, ke bụng. Thày làm cả tạ để tập hàng ngày. Thày Kền còn dạy cho chúng tôi bơi vì sợ có ngày chúng tôi đi chơi sa xuống ao hồ. Hôm ấy, thày bắt tất cả con trai quần đùi áo may ô (xin lỗi, cởi trần) ra con sông đào. Chúng tôi xếp hàng ngang, dọc theo con sông. Thày Kền cũng cởi trần trùng trục, nói dõng dạc :
- Hôm nay, chúng ta học bơi. Tôi nói trước, khi xuống nước, nếu “anh” nào mà bám lấy tôi thì tôi sẽ đánh cho ngất đi rồi mới cứu. Nhớ chưa ? Thôi, bắt đầu !
Thày tóm lấy một bạn to khoẻ nhất, cầm chân cầm tay như tóm một con ếch và vứt tùm xuống sông. Anh bạn tội nghiệp kia lóp nga lóp ngóp được vài phút thì bắt đầu chới với. Thày nhảy ùm xuống sông, bơi rất dũng mãnh lại gần và tóm tóc lôi vào bờ. Thày hỏi:”Đã uống nước chưa?”. Anh bạn, bụng có vẻ phinh phính, thiểu não đáp: ”Dạ...rồi...rồi ạ”. Thày quay sang đám chúng tôi, từ nãy đến giờ vẫn đứng nghiêm bên bờ sông mục kích “bài học bơi” và đanh giọng :
- Người tiếp theo !
Mặt chúng tôi xanh hết cả lại.
Ấy thế mà rồi chúng tôi cũng biết bơi cả, chẳng có ai chết đuối, ngoại trừ một lần “suýt”. Lần ấy là vào dịp hè, nhiều bạn đã về nghỉ hè, cuối tháng tám mới phải lên, nhưng cũng có bạn do gia đình neo người nên cho lên trại sớm. Bạn Đức Thành là một bạn như vậy. Mẹ bạn khá chiều chuộng nên một lần, tôi nhớ là bạn giận mẹ vì đã không mang đường hay sữa gì đó lên (mà bạn đã viết thư dặn mẹ rồi), liền xông ra con mương bao quanh sân kho hợp tác để... tự tử. Đức Thành bơi khá, con mương chỉ nông... có đến rốn, nên Đức Thành phải mặt cúi xuống, ngụp hẳn đầu xuống mương, mãi mà không chết đuối, vì cứ khi nào ngạt thở, bạn ấy lại ngẩng đầu lên, gào ầm ầm:”Ôi, có người chết đuối !”. Đâm ra, tự tử không thành. Chúng tôi được một phen cười tưởng vỡ cả bụng.
Nhờ biết bơi mà có lần bạn Liêm thoát hiểm. Hôm ấy, đi hái trộm khế ở gần bờ ao, cành khế gãy, Liêm tự bơi được vào bờ bên kia. Ở bờ bên này, chú chó dữ tợn của chủ nhà cứ lồng lộn sủa ầm ĩ.
Trong các chuyện về thày Kền thì chuyện thày bị mất đạn là ấn tượng nhất. Tôi quên nói là hồi đó các thày được phát súng (CKC hay AK gì đó), nhưng không thấy các thày bắn máy bay bao giờ. Một dạo, quan hệ giữa thày Kền và lũ chúng tôi có vẻ căng thẳng hơn bình thường. Lý do là chúng tôi quá quắt hơn trước, nghịch ngợm hơn trước, thậm chí vô kỷ luật hơn trước, có dấu hiệu “nổi loạn”. Cho nên thày cũng có phần nghiêm khắc hơn. Hôm ấy, có lẽ bạn trai nào đó đã ăn cắp đạn của thày. Buổi chiều, sau khi phát hiện ra đã bị mất hai viên đạn, thày lập tức xuống khu nhà ở của chúng tôi và gầm lên, quyết tìm ra thủ phạm. Một số bạn đi học bài trên lớp hay đi chơi vắng, thày bắt mọi người đi tìm về. Đến 5 rưỡi, thày thổi còi ra lệnh tập hợp trước sân và cảnh cáo những ai không chịu ra “đầu thú” sẽ phải chịu những hình thức kỷ luật nặng nề. Chúng tôi vẫn đứng nghiêm trên sân, không nhúc nhích. Thày liền về nhà bỏ quần áo ngoài, chỉ mặc độc quần đùi áo lót, đi bít tất, mang giày ba ta, lắp thêm lưỡi lê vào đầu khẩu súng và bỏ mặc chúng tôi đứng như trời trồng ngoài sân. Thày sục lưỡi lê trần vào trong từng gầm giường của chúng tôi và liên tục bảo: ”Ra ngay, ra ngay!”, làm chúng tôi ớn lạnh. Sau đó thày còn sục cả lưỡi lê vào hầm trú ẩn cạnh nhà. May mà chẳng có ai nấp ở đấy. Thực ra thì có mấy bạn đang nấp trên mái nhà (cả bạn phạm lỗi và bạn không phạm lỗi), nằm im thin thít, không ai dám xuống vì thấy thày đang nóng quá. Cuối cùng, chúng tôi phải chịu hình phạt đứng ở sân thay cho người khác, đến 10 giờ 30 mới được đi ngủ. Hai hôm sau, hình như bạn nào đó đã lén trả lại hai viên đạn về vị trí ban đầu của nó.
Mãi sau này, khi chúng tôi trưởng thành, học xong đại học thì mới biết tin. Năm 1969, trường 15 giải thể, thày Kền tình nguyện xung phong đi chiến đấu ở chiến trường B (chiến trường miền Nam), được phân về binh chủng xe tăng. Nghe nói mùa xuân 1975, xe tăng của thày bị trúng cả một quả đạn chống tăng. Chúng tôi lặng người đi và ân hận mãi về những điều dại dột đã làm.
*
* *
Nhớ về trường 15, chúng tôi cũng hay nhắc tới bác Thiết. Phần vì bác là mẹ bạn Mạnh Hà, nhưng chủ yếu là vì bác đã gắn bó với chúng tôi suốt từ hồi ở Cao Bằng. Bác phụ trách việc tắm rửa cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Ngoài ra, bác hay giúp nhà bếp cọ rửa xoong nồi, đĩa chảo.
Trời mùa đông, bác đun một thùng nước nóng và đổ ra một chiếc chậu lớn. Nếu không bắt được “bọn con trai”, thì bác sẽ thuyết phục “bọn con gái” tắm trước. Khi đi tắm, mỗi người phải tự chuẩn bị áo quần để thay và khăn lau. Khi bác Thiết hô tên đứa nào thì đứa đó phải nhanh chóng cởi quần áo ra, chui vào buồng tắm. Nhiều bạn ngượng nên bị bác “mắng” cho sát sạt :”Ôi, cứ làm như của báu lắm ấy ! Cởi ra !”. Gặp phải ai lười tắm nhiều ghét, bác sát xà phòng đến nơi đến chốn, sau đó vừa kỳ vừa dội nước cho, lại vừa nói oang oang như là kể chuyện, làm kẻ đó chỉ muốn chui xuống đất. Một lần, đến phiên “bọn con gái” tắm, chúng tôi ngồi trong nhà cười khúc khích vì nghe thấy bác tiếng đang “bình luận” về các bạn gái cùng lớp của mình :”Gớm, mấy đứa con gái chúng mày, chẳng có đứa nào trắng bằng cái mông thằng Sơn Hà!”. (Xin lỗi Sơn Hà). Bác Thiết được các bà mẹ tin cẩn gửi tiền nhờ mua hộ trứng gà, trứng vịt bồi dưỡng thêm cho các cháu. Bác chậm rãi đeo mục kỉnh, lập danh sách những người được ăn thêm trứng và cẩn thận lấy bút chì đánh dấu trứng của từng người, sợ lẫn. Đến hôm luộc trứng, bác lại “réo” danh sách để những người sắp tẩm bổ ở tư thế sẵn sàng.
Bác là người lo cho chúng tôi giấc ngủ trưa ngủ tối, khâu vá, đơm khuy cho lũ chúng tôi. Nếu ai đó trong chúng tôi bị ốm, thì cô An (sau là cô Nguyệt) là người phát thuốc khám bệnh, còn bác Thiết là người lo nấu cháo thịt và dỗ dành. Bạn Đăng Thảo kiêng ăn thịt bò, bác biết vậy nên mỗi lần nhà bếp liên hoan món thịt bò, bác lại nhắc nhà bếp nấu một suất ăn riêng cho bạn Thảo.
Có một dạo, cô Mai, mẹ bạn Đỗ Bình cũng “rửa ráy” cho lũ chúng tôi, cả trai lẫn gái. Nhưng vì cô phục vụ lớp dưới nhiều hơn, nên kỷ niệm về cô không sâu đậm như những kỷ niệm về bác Thiết.
*
* *
Cô An là y sĩ của trường 15, nhưng đôi khi cô đóng luôn cả vai trò cô giáo, vì cô thường lên lớp cho chúng tôi môn ngoại khoá: y học thường thức và vệ sinh công cộng. Học đi đôi với hành ngay tắp lự. Cô đốc thúc chúng tôi quét tước nhà cửa, vun rác, đốt rác, mở chiến dịch phun thuốc DDT diệt ruồi muỗi. Đích thân cô đi kiểm tra nhà tắm, nhà xí, nhà ăn. Chỗ nào chưa sạch là mất điểm thi đua như chơi. Chiều thứ ba hàng tuần, cả lớp tập trung dưới lũy tre ngay trước phòng y tế, cô An mặc áo bờ-lu trắng, cầm quyển vở đứng trước bảng đen và dạy chúng tôi. Cô soạn giáo án nghiêm túc, không đùa được. Chữ cô tròn, đẹp, rõ ràng, không thể đánh đồng với “chữ bác sĩ”. Môn học này Bộ giáo dục không quy định, nhưng cô đề nghị với nhà trường cứ xếp lịch để cô dạy, có lẽ vì cô coi chúng tôi như đang ở trong một đơn vị quân đội. Nhờ thế, chưa bao giờ xảy ra dịch bệnh gì trong trường.
Cô Nguyệt về thay cô An đi học bác sĩ. Cô là mẹ bạn Quang Minh. Cô trông trẻ hơn cô An và không nghiêm bằng cô An, nhưng cũng là người rất trách nhiệm. Cô kiểm tra dụng cụ nhà bếp kỹ lưỡng, từ con dao thái thịt đến từng cái chậu nhôm đựng cơm. Chiều thứ bảy nào, nhà bếp cũng đun một thùng nước nóng to để nhúng bát đũa và các dụng cụ nấu ăn. Sau này, chúng tôi đi sơ tán lần hai (năm 1972), mới thấy “trường 15 mình” thật sạch sẽ, vì ở chỗ khác, có ai làm cẩn thận như vậy đâu. Những lúc rỗi việc, cô Nguyệt lại xắn tay xuống bếp cùng nặn bánh bao, giã cua, nhặt hến... với bác Tám, cô Nhâm. Những hôm trời mưa, đường làng bê bết bùn, cô hay đi đôi ủng cao su màu đỏ. Đến nỗi bây giờ nhớ lại, tôi cứ luôn hình dung cô đang đi ủng trước mặt tôi vậy.
*
* *
Những tháng ngày ở Thanh Phần đã giúp chúng tôi có những hiểu biết cực kỳ bổ ích về cuộc sống nông thôn. Làng có nhiều loại hoa quả: ổi, bưởi, doi, na, khế... thông thường, nhưng quả chay chẳng hạn, tôi tin là bây giờ không có nhiều người thành phố biết đến. Có nhiều con vật: trâu bò, gà vịt, ngan ngỗng... nhưng mấy ai đã “được” ngỗng đuổi, cắn cho tím bầm, thậm chí chảy máu như chúng tôi. Rồi những con cào cào to bằng quả chuối tây, con dế trũi đầu to bằng ngón tay cái, chắc bây giờ chỉ còn trên sách vở. Chúng tôi được tận mắt xem đâm trâu (thực ra là mổ thịt trâu, vì con trâu ấy bị “lòi dom”), thui chó bằng rơm, bẫy chim sẻ bằng lưới, cảnh chăn vịt đàn, bắt cá rô rạch từ đồng lên bãi cỏ, câu cá chuối trong những buổi mưa giăng màn, dùng phi tiêu đâm cá mè; được thưởng thức những món ăn dân dã : châu chấu rang, cá rô bọc đất sét nướng, khoai lang mật, thịt ếch xào chuối xanh, cá kho sung...; được ăn chung nồi cơm gạo mới với người nông dân, gặt từ ngoài đồng về; được ngắm thoả thích vầng trăng sáng trên sân kho hợp tác mênh mông... ; được biết thế nào là rét căm căm, khoác áo tơi ra đồng, trên tay là ống bơ nhỏ đựng mấy cục than củi đỏ rực làm lò sưởi; được trải qua nỗi hân hoan vô bờ bến khi “hôi” được con cá to, hay câu được con tôm trong suốt bám vào thành giếng làng, mồm con tôm chỉ ngậm mồi chứ không hề cắn.
Ham chơi như vậy nhưng chúng tôi học ra trò. Các kỳ thi học sinh giỏi văn toán cấp huyện, trường 15 đều có đại diện tham gia và đoạt giải cao. Năm lớp 4, chúng tôi có hai bạn được đi thi cấp tỉnh. Thày Kền mượn chiếc xe thồ của bác Bẩm, đèo cả hai bạn (mỗi bạn ngồi một sọt) và một bao gạo lên Hát Môn tập trung ôn và thi tại đó. Tiếc rằng, hai bạn không giành được giải rút gì, vì tiếng là thi học sinh giỏi tỉnh Hà Tây, nhưng các “đối thủ” đều là người Hà Nội sơ tán.
Nếu ai đó hỏi chúng tôi, những ngày bom đạn đó chúng tôi có sợ không thì xin thưa, có sợ. Nhưng nỗi lo sợ chỉ thoảng qua những khi máy bay “Thần sấm”, “Con ma” gầm rít trên trời. Còn khi báo yên rồi thì lại tiếp nối một chuỗi đời học sinh rong chơi, có vẻ hơi vô tư lự, nhưng đầy khao khát khám phá những điều kỳ lạ của cuộc sống. Cũng như hỏi chúng tôi có nhớ bố mẹ không, thì phải nói là có. Nhưng cũng lại phải nói một cách công bằng là chúng tôi không có thì giờ để ngồi nhớ nhung, buồn bã, uỷ mị, mà chúng tôi – những đứa trẻ hiếu động – rủ nhau đi tìm hiểu và tiếp xúc với thế giới xung quanh chúng tôi, đó là cái làng Thanh Phần. Đến chủ nhật, nếu bố mẹ lên thì thật là hạnh phúc, còn nếu không, chúng tôi cũng không tỏ ra buồn bã một cách cực đoan. Phần vì chúng tôi quen với điều đó rồi, phần vì chúng tôi cũng “có chỗ để mà đi chơi”.
Tư tưởng khám phá xung quanh cũng một phần do ảnh hưởng của các cuốn sách có trong thư viện trường, như : Chú người gỗ, Cuộc phiêu lưu của Ca-rích và Va-li-a, Đảo giấu vàng, Rô-bin-sơn Crút-xô, Hai vạn dặm dưới đáy biển, Du hành trong tiểu vũ trụ... mà các thày cô khuyến khích chúng tôi đọc.
Trích từ Diễn đàn www.vnkatonak.com.