Tin trong nước

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
8 dự báo về kinh tế cuối năm

Nguồn tin: CAND | 11/08/2011 6:49:28 SA
GetThumbnail.axd
Dự đoán về những xu hướng dịch chuyển của các biến động kinh tế là cần thiết cho bất kỳ doanh nhân và nhà đầu tư nào, thậm chí những người dân bình thường. Dựa vào tình trạng hiện nay, các chính sách, bối cảnh kinh tế thế giới, có thể phán đoán về những vận động của các yếu tố kinh tế của Việt Nam trong 4 tháng cuối năm.

1. Lạm phát tiếp tục tăng

Với tình hình lạm phát trên thế giới chưa hề có dấu hiệu giảm sút thì lạm phát tại Việt nam cũng không thể có dấu hiệu chững lại. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào hàng nhập khẩu từ nguyên liệu, máy móc tới hàng tiêu dùng.

Cùng với việc đồng VND có xu hướng tiếp tục mất giá, lạm phát do đình đốn do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thiếu vốn và không mở rộng và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh... vào thời điểm cuối năm cũng thường là thời điểm nhu cầu hàng hóa tăng lên cũng làm cho tình hình làm phát thêm căng thẳng.

2. Lãi suất ngân hàng còn ở mức cao

Với chính sách siết chặt tiền tệ để ngăn chặn lạm phát, cộng với việc các doanh nghiệp tại Việt Nam có hiệu suất sử dụng vốn không cao, tăng trưởng phụ thuộc lớn vào nguồn vốn, dẫn tới việc nhu cầu vốn của các doanh nghiệp thì cao, trong thi nguồn tiền cung ứng ra bị hạn chế dẫn tới lãi xuất cho vay các doanh nghiệp khó có thể giảm, đặc biệt theo thông lệ cuối năm tình hình lãi suất ngân hàng càng có xu hướng căng thẳng hơn, do nhu cầu thanh quyết toán còn lớn hơn các tháng đầu và giữa năm.

3. Chứng khoán và bất động sản tiếp tục khó khăn

Không những bị ảnh hưởng bởi chính sách siết chặt tiền tệ thì hai lĩnh vực này còn bị quy vào đối tượng hạn chế cho vay, do vậy dòng tiền cho vay đổ vào khu vực này bị hạn chế.

Tình hình kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết cũng không có gì sáng sủa hơn trong bức tranh khó khăn chung của các doanh nghiệp, sẽ làm cho các nhà đầu tư không có nhiều hào hứng khi đổ tiền vào hai lĩnh vực này.

Ngoài ra, bất động sản còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố khác làm cho các giao dịch bất động sản trở nên khó khăn hơn.

4. Kiều hối giảm

Lương kiều hối chuyển về Việt Nam một phần gửi cho thân nhân trong nước tiêu dùng nhưng một phần lớn hơn nữa là dùng để đầu tư. Cùng với việc siết chặt tiền tề chuyển ra nước ngoài cũng sẽ hạn chế số tiền kiều hối chuyền về trong nước đầu tư. Hơn nữa, hai lĩnh vực ưa thích đầu tư của dòng tiền kiều hồi là chứng khoán và bất động sản sụt giảm cũng sẽ hạn chế luồn tiền này chuyển về trong nước.

5. Đầu tư nước ngoài giảm

Dòng vốn đầu tư vào nước ngòai thường tập trung vào những lĩnh vực thu lợi nhuận cao và đột biến như bất động sản và chứng khoán, hai kênh này giờ đang kém hấp dẫn và làm cho nhà đầu tư nước ngoài chịu nhiều thua lỗ, các doanh nghiệp đầu tư tại các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng cũng chịu áp lực về chi phí đầu vào tăng cao, biến động tỷ giá sẽ bất lợi cho lợi nhuận họ tạo được khi so sánh lợi thế cơ hội.

Do vậy, đầu tư nước ngoài có hướng giảm, và có thể họ rút tiền về chuyển sang đầu tư tại các nước khác có nhiều lợi thế hơn.

6. Vàng có thể tiết tục tăng giá

Khi giá vàng thế giới có xu thế tiếp tục tăng do bất ổn về kinh tế thế giới và chính sách đa dạng hóa kho dự trữ của nhiều Ngân hàng TW các nước, cũng như nhu cầu vàng của người dân các nước Trung Quốc, Ấn Độ tiếp tục cao thì giá vàng thế giới vẫn cao.

Giá vàng trong nước bị ảnh hưởng tới giá vàng thế giới, nhưng Việt Nam đã xuất khẩu một lượng vàng trong năm vừa rồi dẫn tới vàng trong nước lại càng hiếm, nên vàng trong nước có xu hướng tiếp tục tăng mạnh.

7. Tỷ giá USD tiếp tục tăng

Do tình hình nhập siêu vẫn không hề giảm, cộng với lượng tiền rút về nước của các nhà đầu tư nước ngoài thua lỗ tại Vn, cùng với sự sụt giảm luồng tiền kiều hối. Và thời gian cuối năm cũng là thời gian đáo hạn các khoản vay USD của doanh nghiệp với ngân hàng sẽ làm cho cán cân cung cầu USD nghiêng hẳn về phía cầu và dẫn tới USD có xu hướng tăng giá so với VND.

8. Nợ quá hạn ngân hàng lớn

Người tiêu dùng đang có xu hướng giảm chi tiêu do kinh tế khó khăn và lạm phát. Cùng với chính sách siết chặt tiền tệ kéo dài quá lâu, số doanh nghiệp không chịu đựng nổi lãi xuất cao và thiếu vốn sẽ có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản, và nhiều doanh nghiệp sẽ không trả được nợ gốc và lãi, điều này ảnh hưởng tới lợi nhuận và kinh doanh của khu vực ngân hàng. Nếu xấu có thể gây ra những biến động dây chuyển bất lợi cho cả hệ thống.
Nguyễn Hồng Hải
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Dự thảo quản lý vàng: NHNN là cơ quan duy nhất được xuất vàng

Thứ năm, 11/08/2011 10:12

Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, NHNN có thể NHNN trực tiếp xuất, hoặc có thể ủy quyền cho các đơn vị thay mặt NHNN thực hiện.

ac9b1_nguyenvanbinh.jpg

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình, NHNN đang xây dựng một khung pháp lý quản lý vàng theo hướng hoàn thiện, thông thoáng hơn, để thị trường có thể hoạt động theo quy luật của nó, mà vẫn kiểm soát được.

Trong khi chưa có khung pháp lý, Thống đốc cho rằng phải xem xuất nhập khẩu vàng là hoạt động bình thường của nền kinh tế. Quy định của Bộ Tài chính (áp thuế 10% với sản phẩm trên 80% từ vàng) là ngăn xuất vàng nguyên liệu dưới dạng trang sức. Tới đây sẽ có những quy định phù hợp cho xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu.

Thống đốc tiết lộ, theo dự thảo nghị định mới về quản lý vàng, cơ quan duy nhất được phép xuất khẩu vàng là NHNN. NHNN có thể NHNN trực tiếp xuất, hoặc có thể ủy quyền cho một số doanh nghiệp, tổ chức tín dụng thay mặt NHNN thực hiện. Sau này sẽ chỉ có NHNN xuất, NHNN nhập.

Những doanh nghiệp, ngân hàng đáp ứng được các tiêu chí, sẽ được NHNN chọn thu mua vàng trong dân cho NHNN và có thể được NHNN ủy quyền cho xuất vàng đó.

Đối với thị trường ngoại tệ, ông Bình cho biết mục tiêu trong thời gian tới là ổn định giá trị VND. Trong trường hợp NHNN thấy cần phải xem xét điều chỉnh tỷ giá, thì sẽ điều chỉnh không quá 1% từ nay đến cuối năm. Thậm chí NHNN sẽ để cho VND lên giá một chút nữa.

Đầu tuần này do giá vàng biến động, giới đầu cơ cả trên thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do tranh thủ tạo sóng. Trên thực tế, nhu cầu ngoại tệ thanh toán nhập khẩu hiện nay không cao. Thậm chí nhập khẩu xăng dầu cũng không có nhu cầu mua ngoại tệ.

Tuy nhiên, thống đốc cũng cho rằng phải nhìn nhận thẳng thắn vừa qua không ít lần hiện tượng làm giá xuất hiện trên thị trường liên ngân hàng và tỷ giá cũng biến động tới 100-200 đồng/USD/ngày, nhưng không thể cưỡng lại chiều hướng chung.

Còn khi cung cầu có vấn đề, NHNN sẽ can thiệp mà động thái trực tiếp là bán ra ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối hiện nay đủ sức can thiệp ở mức cần thiết. Ngoài ra, nếu cần NHNN sẽ xem xét tương quan lãi suất tiền đồng để hỗ trợ tỷ giá, ông Bình khẳng định.
Nguồn TBKTSG
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Giá trị VND: Bào mòn và thử thách

Nguồn tin: VnEconomy | 11/08/2011 12:57:49 CH
GetThumbnail.axd
Hãy thử đặt mình là một trong dòng người đứng xếp hàng lấy ticket để được hẹn mua vàng những ngày đầu tuần này…

Họ xuất phát từ những suy tính, quan điểm có thể khác nhau, nhưng cùng chung một nhận định: nắm vàng lúc này lợi hơn (dù thực tế sau đó có thể đã thua lỗ). Bởi thế, phía ngân hàng cũng thừa nhận có hiện tượng người dân rút tiền ra mua vàng, thậm chí chấp nhận chịu phát rút trước hạn.

Và phía sau đó là niềm tin vào VND.

Từ câu chuyện của Agribank

Tại buổi tổng kết hoạt động 6 tháng đầu năm mới đây, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) đưa ra kết quả đáng chú ý: tăng trưởng tín dụng 6 tháng mới chỉ đạt 0,6%.

Trong bối cảnh nhiều nhà băng vừa cho vay vừa dè chừng giới hạn tăng trưởng 20%, câu nói vui của người trong ngành là: “Nhìn Agribank mà thèm…”.

Năm nay, Agribank đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 11 - 12%. Với kết quả trên, hoàn thành chắc là rất khó. Mà nếu “ông lớn” này hoàn thành, con số tăng trưởng chung của toàn hệ thống sẽ cải thiện rõ rệt chứ không lẫm chẫm cỡ 1/3 quãng đường của chỉ tiêu, thậm chí còn sụt giảm trong tháng 7.

Bởi lẽ, về tổng tài sản, vốn điều lệ và thị phần thì Agribank hiện đang dẫn đầu. Tính đến cuối năm 2010, ngân hàng này có quy mô tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống với hơn 523 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 15% tỷ trọng toàn ngành và 30% tỷ trọng nhóm ngân hàng quốc doanh); vốn điều lệ cũng lên tới hơn 20,7 nghìn tỷ đồng.

Ước tính, tổng dư nợ của các ngân hàng hiện trên dưới 2,5 triệu tỷ đồng, riêng Agribank tính đến 30/6/2011 dư nợ là 417.312 tỷ đồng, tức chiếm tỷ trọng trên dưới 16%.

Câu hỏi đặt ra là vì sao tăng trưởng tín dụng của Agribank quá thấp như vậy? VnEconomy cũng đã đặt câu hỏi này với lãnh đạo cao cấp của Agribank nhưng chưa có câu trả lời. Nhưng nhìn vào cơ cấu vốn và các cân đối thì cũng có thể định hình một số điểm cơ bản.

Theo như định hướng đặt ra trong năm 2010, Agribank phấn đấu 70% khách hàng mà họ giải ngân là các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Lĩnh vực này xét chung luôn được ưu đãi lãi suất, có mặt bằng thấp hơn hẳn so với cho vay thông thường. Vậy mà tín dụng gần như không tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 2011. Đây cũng là kết quả đáng tham khảo về chủ trương mà Ngân hàng Nhà nước luôn nhấn mạnh thời gian qua, ưu tiên vốn cho nông nghiệp, nông thôn.

Nhưng, cái chính là đầu vào của “ông lớn” này bị hạn chế khiến đầu ra không thể đẩy mạnh. Tính đến 30/6/2011, tổng nguồn vốn của Agribank đạt 487.615 tỷ đồng, chỉ tăng 2,67% so với đầu năm, trong khi dư nợ đã đạt 417.312 tỷ đồng; nguồn lực cũng đã được đẩy mạnh khai thác khi tỷ lệ dư nợ/tổng nguồn vốn đã đến mức 85,6%.

Ngoài ra, một chỉ số khác để tham khảo thêm là hệ số an toàn vốn (CAR), nhưng ở các kênh thông tin công bố chính thức hiện chưa có cập nhật cụ thể.

Huy động vốn hạn chế, trong khi đây là nhà băng có mạng lưới số 1 Việt Nam, trải rộng khắp các địa bàn. Vậy có phải tiền trong dân đã cạn? Điều này có vẻ nghịch lý với dòng người xếp hàng để được mua vàng những ngày qua. Lãi suất lên tới 14%/năm mà vẫn chưa hấp dẫn? Câu trả lời là lạm phát quá cao, giá trị VND bị bào mòn và lãi suất không đủ hấp dẫn người gửi tiền.

Từ Agribank đến rộng hơn là cả hệ thống, tăng trưởng huy động vốn thời gian qua cũng đì đẹt. Tính đến 20/7 mới chỉ tăng có 3,96%, thậm chí còn giảm 0,25% so với tháng 6.

Lạm phát tỷ lệ nghịch với niềm tin đối với VND. Khó thể trách dòng người xếp hàng chờ ticket mua vàng, hay đang âm thầm gom “đô” trên thị trường tự do được.

Đến thử thách của niềm tin

Sau bài viết “Hai thử thách đầu tiền chờ Thống đốc Nguyễn Văn Bình” trên VnEconomy, người viết nhận được cuộc gọi của một bạn đọc quen thuộc: “Bạn đặt vấn đề chưa đúng đích lớn nhất. Thử thách lớn nhất lúc này là làm sao giữ được niềm tin VND, mà điều này đi cùng với yêu cầu kiềm chế được lạm phát, nhưng làm sao vừa kiềm chế được lại không gây mất thanh khoản hệ thống?”.

Nhìn lại, từ đầu năm đến nay, công cụ chủ yếu mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng để chống lạm phát là lãi suất. Sau những lần tăng dồn dập các lãi suất điều hành, dường như giới hạn của công cụ này đã rất gần. Bởi thực tế là nhiều doanh nghiệp điêu đứng, sản xuất đình trệ, mà lạm phát vẫn liên tiếp tăng cao (dĩ nhiên độ trễ của tác động chính sách thường từ 3 - 6 tháng).

Câu hỏi là tại sao Ngân hàng Nhà nước không dùng biện pháp kinh điển trong chống lạm phát là tăng dự trữ bắt buộc? Nguyên Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cũng đã nhiều lần giải thích: không sử dụng công cụ đó vì hệ thống ngân hàng Việt Nam không đồng đều, trong khi tác động của nó rất rộng lớn. Hay cách ông nói tại cuộc gặp báo chí tháng 6 vừa qua là: “Tăng dự trữ bắt buộc là một giải pháp bạo lực”.

Thế nhưng, vẫn có quan điểm cho rằng cần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc như là một liệu pháp mạnh để chống lạm phát, đi cùng với đó là “phụ gia” để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với thanh khoản hệ thống ngân hàng.

Hồi tháng 4/2011, lạm phát tăng bất thường, tổng giám đốc một ngân hàng thương mại khi trò chuyện với VnEconomy có đưa ra một phương án rằng: Ngân hàng Nhà nước có thể tăng mạnh dự trữ bắt buộc để hút tiền về chống lạm phát, nhưng sẽ trả lãi suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc ở mức chấp nhận được để bù đắp chi phí cho các ngân hàng, tránh tác động đẩy chi phí đó vào lãi suất cho vay.

Mặt khác, do sự không đồng đều trong hệ thống, nhà điều hành xem xét tái cấp vốn cho những thành viên thanh khoản yếu, để tránh những mũi khoan lãi suất gây xáo trộn trên thị trường. Lãi suất tái cấp vốn đó bằng với lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Cho vay theo con đường này, ngân hàng muốn mượn thì phải thế chấp bằng chính vốn điều lệ của mình, đồng nghĩa với sự chấp nhận nếu không trả được nợ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trả thành chủ sở hữu.

“Cách đó tất nhiên là cần có sự thông qua của đại hội cổ đông. Nhưng đó là một cách nói để thấy rằng, khi ngân hàng thương mại đem cả “bàn thờ tổ” của mình ra thế chấp thì Ngân hàng Nhà nước hãy tin và hỗ trợ họ”, vị lãnh đạo ngân hàng này nói.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước vừa rút được tiền về để chống lạm phát, vừa trung hòa được tác động và hạn chế bất ổn thanh khoản ở một số thành viên.

Tại thời điểm đó (tháng 4/2011), quan điểm trên là sự tâm huyết mang tính trao đổi cá nhân. Bởi trong công việc, quan điểm tăng dự trữ bắt buộc có thể không dễ chịu với các ngân hàng thương mại nói chung.

Nhưng nếu đó là một giải pháp hiệu quả, tốt cho nền kinh tế - môi trường hoạt động của các ngân hàng - thì có lẽ sẽ được ủng hộ; các ngân hàng thương mại có thể cùng chia sẻ vì đại cục, vì mục tiêu kìm cương con ngựa lạm phát.

Và nếu kiềm chế lạm phát thành công, giá trị VND sẽ được củng cố thay vì đứng nhìn lượng vốn huy động của hệ thống sụt giảm, trong khi dòng người vẫn chen lẫn mua vàng hay âm thầm gom “đô” như những ngày qua …

MINH ĐỨC
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
100 tấn vàng nằm trong hệ thống ngân hàng

Thứ sáu, 12/08/2011 07:01

Tuy nhiên, lượng vàng lưu thông trên thị trường rất ít bởi quy định không cho phép các ngân hàng thương mại bán ra lượng vàng huy động.

Thanh Niên dẫn số liệu của ngân hàng Nhà nước (NHNN), lượng vàng trong dân hiện nay khoảng 300 - 500 tấn.

Trong khi số vàng mà các ngân hàng hiện đang giữ của người dân hiện nay hơn 2,4 triệu lượng (khoảng 100 tấn vàng) dưới hình thức tiết kiệm. Ngoài việc tăng tổng tài sản, các ngân hàng không thể cho vay hay bán vàng ra khi thị trường khan hiếm.

Lượng vàng các ngân hàng cho vay trước đây hơn 1,1 triệu lượng (gần 50 tấn). Những hợp đồng vay này thường có tài sản thế chấp nhưng với sự tăng giá quá nhanh của vàng, buộc khách hàng phải đưa thêm tài sản thế chấp cho ngân hàng, còn không khách hàng phải mua vàng trên thị trường để trả lại.

Đề xuất cho phép ngân hàng được bán vàng

Đến 11/8, 1 tấn vàng đã được nhập về tới Việt Nam. Và để các doanh nghiệp nhập 5 tấn vàng, cần hơn 250 triệu USD.

Để giá trong nước liên thông thị trường vàng quốc tế nhưng không mất nhiều ngoại tệ, ông Trần Thanh Hải - Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và kinh doanh vàng Việt Nam (VGB), cho rằng trước mắt cần cho phép ngân hàng được phép bán vàng. Đồng thời cho phép các đơn vị có kinh nghiệm thực hiện công cụ đối ứng vàng ra nước ngoài.

Khi thị trường vàng trong nước khan hiếm hàng đẩy giá cao hơn giá thế giới, các ngân hàng huy động vàng sẽ bán vàng ra can thiệp thị trường và thực hiện đối ứng ra nước ngoài với tỷ lệ ký quỹ rất thấp. Lúc này giá vàng sẽ giảm xuống một mức giá hợp lý, các ngân hàng sẽ thực hiện mua lại vàng trong nước và đóng lệnh đã mua ở nước ngoài.

Như vậy, thay vì nhập 1 tấn vàng mất hơn 50 triệu USD, việc cho phép đối ứng ra nước ngoài với tỷ lệ ký quỹ chỉ vài trăm ngàn USD và khi tất toán lệnh thì số USD này cũng không mất đi.
Nguồn Thanh Niên
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Đã có đủ các yếu tố khách quan và giải pháp để giảm LS




Hệ thống ngân hàng đã đi sai về mặt bản chất, hút hết vốn của nền kinh tế không còn vốn cho TTCK. Vì vậy khi nào NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ thì TTCK 'xanh', chính sách thắt thì TTCK 'đỏ'
Thưa Thống đốc, trong điều hành chính sách tiền tệ, vấn đề nào sẽ được ưu tiên xử lý trong những tháng tới?
Với mục tiêu chính là kiềm chế lạm phát, chính sách tiền tệ vẫn được điều hành chặt chẽ, nhưng cũng hết sức linh hoạt để phù hợp với thực tiễn kinh tế Việt Nam. Trên tinh thần đó, NHNN đặt ra mục tiêu trọng tâm số 1, xuyên suốt đến cuối năm nay và thậm chí cả các năm sau là đảm bảo ổn định giá trị VND.

Đồng thời, giảm mặt bằng lãi suất cho vay đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh lành mạnh xuống mức 17 - 19%/năm, tiếp tục kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ vốn tăng trưởng đã tương đối nóng và thị trường vàng. Tất cả các giải pháp của NHNN sẽ trên một bình diện chung là đảm bảo thực hiện tăng trưởng tín dụng của hệ thống không vượt quá 20% và tổng phương tiện thanh toán ở mức khoảng 15 - 16% trong năm nay.
Giảm mặt bằng lãi suất cho vay xuống mức 17 - 19%/năm liệu có khả thi, thưa Thống đốc?
Tôi khẳng định là giảm được, bởi 3 lý do sau:
Thứ nhất, tính đến thời điểm hiện tại, thanh khoản cũng như vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) tương đối tốt. Hơn 2 tháng nay, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng luôn bình ổn, dao động trong khoảng 12 - 15%/năm, phụ thuộc vào các loại hình giao dịch. Nếu so mặt bằng lãi suất chung với tỷ lệ lạm phát hiện nay thì tỷ lệ này khá ổn định, thậm chí theo đánh giá của tôi là hơi thấp, đáng lẽ còn phải cao hơn 1%. Khi vốn đã có, giữa các ngân hàng vay mượn lẫn nhau với lãi suất tối đa khoảng 15% nghĩa là vốn cho nền kinh tế đã sẵn sàng.
Tuy nhiên, hiện còn một số vướng mắc, thực tế do chính những quy định của NHNN trước đây khiến cho thị trường 2 và thị trường 1 không liên thông được, nên đã không điều hòa được vốn giữa các TCTD. Điều này đã được đặt ra và chúng tôi sẽ xử lý, điều chỉnh kịp thời trong thời gian tới.
Thứ hai, hiện số ít TCTD có sự mất cân đối rất lớn giữa nguồn và sử dụng nguồn, nên đôi khi gây ra những nhu cầu thất thường trên thị trường, từ đó làm cho tâm lý ổn định của thị trường bị ảnh hưởng. NHNN sẽ có những giải pháp để đảm bảo các TCTD tồn tại, phát triển một cách lành mạnh.
Thứ ba, mặc dù vốn đã có nhưng tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống còn rất thấp, thậm chí trong tháng 7 vừa qua tăng hầu như không đáng kể. Nguyên nhân là lãi suất cho vay cao quá nên những DN làm ăn nghiêm túc không thể tiếp cận được. Do vậy, chính các ngân hàng cũng đặt ra yêu cầu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ các DN lành mạnh, bởi đó cũng là nền tảng hoạt động của ngân hàng.
Tóm lại, tất cả các điều kiện khách quan đã có, chỉ còn lại quyết tâm của các TCTD cũng như sự điều hành khéo léo của NHNN là sẽ đạt được mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất.
Có ý kiến cho rằng, yếu tố chính dẫn đến việc TTCK suy giảm mạnh hiện nay liên quan đến chính sách tiền tệ. Quan điểm của Thống đốc về điều này?
Tôi khẳng định quan điểm này là không đúng. Thị trường tài chính có ba cấu phần quan trọng: ngân hàng (thị trường tiền tệ), TTCK (thị trường vốn), bảo hiểm. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn chỉ có 364 ngày, còn TTCK là thị trường vốn trung và dài hạn. Vậy tại sao lại bắt thị trường vốn ngắn hạn đầu tư vào thị trường vốn trung và dài hạn? Tất nhiên, trong một tỷ lệ, một thời gian ngắn nhất định thì điều này được cho phép, nhưng nếu là nguồn chính để nuôi thị trường vốn là điều hết sức vô lý. Vấn đề này cần phải nghiêm cấm.
Theo Thống đốc, đâu là nguyên nhân khiến thị trường vốn hầu như phải phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường tiền tệ?
Nhu cầu đầu tư của nền kinh tế trên 40% GDP, trong khi tích lũy chỉ khoảng 20%, như vậy 20% còn lại phải đi vay mượn. Chủ trương chung là cũng phải huy động vốn nước ngoài, nhưng chủ yếu là trung và dài hạn để bù đắp phần thiếu hụt giữa tích lũy và đầu tư, còn hạn chế vay nợ ngắn hạn. Như vậy, kể cả vay nợ nước ngoài cũng không được hoàn toàn khuyến khích, nên không thể hoàn toàn đáp ứng được nguồn vốn. Từ đó, nhu cầu vốn cho nền kinh tế lúc nào cũng được đặt ra rất căng thẳng để làm sao bù đắp được 20% còn lại.
Trong khi nhu cầu vốn hiện hữu của nền kinh tế là rất lớn, TTCK lại liên tục trồi sụt làm người dân thiếu tin tưởng vào thị trường này. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn, các TCTD huy động vốn và cho vay cật lực, nên tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng trong nhiều năm trước lúc nào cũng cao ngất ngưởng 30 - 40%/năm, thậm chí có những năm là 50%. Như vậy là tăng trưởng quá nóng.
Mục tiêu cơ bản trên thị trường ngắn hạn là bảo toàn vốn, có thể có một phần lãi, không vì mục đích lợi nhuận hay đầu cơ tiền tệ. Nhưng do nhu cầu vốn lớn nên ngân hàng huy động bằng mọi giá, đẩy lãi suất lên rất cao trong thời gian qua, biến ngân hàng thành chỗ đầu cơ tài chính của nền kinh tế. Rõ ràng, hệ thống ngân hàng đã đi sai về mặt bản chất, hút hết vốn của nền kinh tế thì còn đâu vốn cho TTCK nữa. Điều này dẫn đến, khi nào NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ thì TTCK 'xanh', chính sách thắt thì TTCK 'đỏ'.
Vậy theo Thống đốc, phải có giải pháp nào cho vấn đề trên?
Thời gian tới, cần phải dần lập lại trật tự trên thị trường tài chính, điều đó cũng là để đảm bảo an toàn hoạt động của NHNN. Trong đó, vẫn cần những biện pháp hạn chế tăng trưởng tín dụng để các ngân hàng không còn phải huy động vốn bằng mọi giá. Khi đó, nền kinh tế và người dân sẽ buộc phải suy nghĩ về việc gửi tiền vào ngân hàng để bảo toàn vốn hay đầu tư trên thị trường vốn. Từ đó, TTCK mới có vốn và hoạt động tốt lên và điều này cũng có ý nghĩa chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng. Quan trọng hơn cả là giúp thị trường tài chính lành mạnh và trở về đúng với kết cấu: ngân hàng: vốn ngắn hạn - TTCK: vốn trung và dài hạn.
Mấy ngày gần đây, giá vàng trong nước bất ngờ tăng cao hơn giá vàng thế giới trên 1 triệu VND, rồi lại nhanh chóng giảm xuống. Câu chuyện này liệu có lặp lại trong những tháng cuối năm?
Chúng ta không phải là nước sản xuất vàng mà phải nhập khẩu vàng, nên giá vàng thế giới liên tục tăng cao khiến giá vàng trong nước cũng tăng là điều bình thường. Còn khi giá vàng trong nước cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới đã thể hiện yếu tố đầu cơ, làm giá. NHNN sẽ nhanh chóng ngăn chặn hoạt động này, tránh gây thiệt hại cho người nắm giữ cũng như mua bán vàng.

Mục tiêu đặt ra là làm thế nào để giá vàng trong nước phải bằng hoặc thấp hơn chứ không cao hơn giá vàng thế giới và bằng các công cụ chính sách sẽ hướng tới mục đích đó. Đặc biệt, Nghị định về quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh được ban hành trong thời gian ngắn tới sẽ nâng cao được vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân cũng như những người hoạt động sản xuất - kinh doanh và nắm giữ vàng.

Do đó, không loại trừ một vài yếu tố như đầu cơ, làm giá hay tâm lý của người dân có thể tạo ra những đợt sóng nhẹ, song tôi tin chắc rằng, người dân sẽ tin tưởng hơn vào chính sách quản lý thị trường vàng của NHNN và Chính phủ sau khi nghị định này được ban hành.
Niềm tin vào chính sách, đó là điều lãnh đạo các ngân hàng đều mong muốn có. Thống đốc sẽ đáp lại mong mỏi này trong nhiệm kỳ của mình như thế nào?
Với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, chính sách tiền tệ của NHNN chắc chắn sẽ được điều hành ổn định, nhất quán.

Còn mục tiêu dài hạn của Thống đốc?
Thứ nhất, thay đổi về cơ bản cách thức điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đảm bảo sự quản lý của Nhà nước và đảm bảo vai trò chủ động của NHNN. Nâng cao khả năng dự báo và phân tích tiền tệ để chủ động trong chính sách.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng theo hướng cơ quan này là người đồng hành với các TCTD.
Thứ ba, củng cố, chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống TCTD Việt Nam, đảm bảo các TCTD hoạt động lành mạnh, ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ, với quy mô nền kinh tế như Việt Nam có tới 80 TCTD là thừa, nhưng dịch vụ ngân hàng lại thiếu.
Thứ tư, chống đôla hóa và vàng hóa trong nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần vào việc chống thị trường không chính thức nổi lên. Ngoài ra, đưa Việt Nam vào nhóm các nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt ở mức khá trong khu vực và thế giới.
Thứ sáu, nâng cao trình độ công nghệ trong hoạt động điều hành của NHNN và có đổi mới về cơ bản trong quản trị điều hành của các TCTD.
http://cafef.vn/20110812100417133CA...yeu-to-khach-quan-va-giai-phap-de-giam-ls.chn
Theo Hồng Dung
ĐTCK
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Fitch giữ nguyên xếp hạng tín dụng của Việt Nam
12/08/2011 13:43:03
(Ảnh minh họa: Hữu Oai/TTXVN)

Tổ chức đánh giá tín dụng Fitch khẳng định giữ nguyên mức xếp hạng tín dụng của Việt Nam, đồng thời đánh giá rằng triển vọng của Việt Nam tiếp tục ổn định.
Hiện tại, Fitch đánh giá khả năng trả nợ dài hạn của Việt Nam là B+, còn khả năng trả nợ ngắn hạn là B.

Ông Andrew Colquhoun, trưởng bộ phận đánh giá tín nhiệm quốc gia phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Fitch cho rằng chính sách tiền tệ chặt chẽ của Việt Nam sẽ hỗ trợ thêm cho việc duy trì mức xếp hạng này.

Tuy nhiên, ông cũng nhận định rằng sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam đang chịu áp lực vì lạm phát cao và một số vấn đề còn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng.

Theo Fitch, lạm phát tăng 22,2% trong tháng Bảy vừa qua, tăng mạnh so với mức 11,8% vào tháng 12/2010, một phần do giá lương thực cao nhưng cũng một phần vì đồng tiền mạnh và tăng trưởng tín dụng cũng như chi tiêu tài khóa trong năm 2010.

Fitch coi Nghị quyết 11 của Chính phủ là một sự hỗ trợ cho niềm tin ở trong nước đối với tiền đồng, sự ổn định kinh tế và xếp hạng tín nhiệm. Đồng Việt Nam khá ổn định kể từ tháng 2 so với đồng USD. Tuy nhiên tổ chức này cũng cho rằng yêu cầu then chốt là phải tiếp tục có cam kết chính thức với kế hoạch này./.



Theo TTXVN
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Ngân hàng vẫn ganh nhau hút vốn

Sau một thời gian yên ắng, lãi suất đầu vào bằng đồng Việt Nam của một số ngân hàng đang rục rịch "nóng" trở lại. Tuy nhiên, mức tăng không quá ồ ạt mà chỉ diễn ra nhỏ lẻ ở một số đơn vị.

ls-0.jpg

Ảnh: Tuệ Minh.
Lãi suất huy động đã qua thời chỉ 14% một năm như niêm yết. Cuộc đua huy động vốn của nhiều ngân hàng ngày càng nóng.Chị Thanh, ở Mỹ Đình (Hà Nội) được nhân viên một ngân hàng thương mại cổ phần chào mời lãi 17% cho khoản tiền gửi 400 triệu đồng, kỳ hạn có thể kéo dài từ 1 đến 6 tháng và không giới hạn chỉ một tháng như trước. Trong khi đó, một nhà băng khác cũng chào mời chị này mức lãi chênh hơn là 18% một năm. Với khoản tiền lớn hơn, khoảng 500-600 triệu đồng trở lên, lãi suất nhận được có thể đạt 18,3% cho kỳ hạn 1 tháng.
Nhân viên giao dịch một nhà băng trên phố Láng Hạ (Hà Nội) cũng khẳng định, với khoản tiền 400 triệu đồng, lãi suất có thể trên 18% một năm. Tuy nhiên, thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước tương đối mạnh tay nên dù muốn, đơn vị này vẫn không dám nới ra quá nhiều cho khách. "So với các ngân hàng khác, lãi như thế này là cao hơn rồi. Giờ nhiều nơi giảm, mà bên em vẫn ổn định, thậm chí tăng, là quá được", chị này cho biết.
Mặt bằng lãi mới nhất cách đây khoảng gần một tháng của nhiều ngân hàng phổ biến từ 16-19% một năm cho các kỳ hạn từ 1 đến 2 tháng. Sau đó, nhờ những chính sách can thiệp của Ngân hàng Trung ương, lãi suất niêm yết và "đi đêm" của không ít đơn vị đã xuống thấp.
Tuy nhiên, những ngày gần đây, khách đến gửi tiết kiệm bằng VND có thể thỏa thuận được lãi suất cao hơn so với mức đã "nới" lên từ trước đó. Cụ thể, với các khoản tiền gửi từ vài trăm triệu đồng trở lên, mức lãi suất cao nhất có thể nhận được tại một số ngân hàng quốc doanh có thể đạt trên 17% một năm (cao hơn khoảng 0,2% một năm so với trước). Ngoài ra, các chương trình tặng quà, tích điểm, ưu đãi cho khách gửi tiền nhiều vẫn liên tục được các nhà băng tung ra để câu kéo khách hàng.
Theo tìm hiểu của VnExpress.net, càng những ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, lãi suất đầu vào càng được đẩy lên cao hơn. Mức lãi phổ biến hiện nay từ 17 đến 20%, tùy số tiền gửi cũng như kỳ hạn. Với khách hàng đem tiền đến gửi ở ngân hàng quốc doanh, lãi suất phổ biến từ 17 đến hơn 18% một năm. Chênh lệch lãi suất tại hệ thống các ngân hàng vừa, nhỏ với ngân hàng lớn khoảng 2-3% một năm.
Áp lực lạm phát vẫn còn cao được cho là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cuộc đua lãi suất đầu vào chưa nguội bớt.
Tổng Giám đốc một ngân hàng thương mại tại Hà Nội chia sẻ, yếu tố chính khiến cho mặt bằng lãi suất đầu vào vẫn cao và có một số đơn vị bắt đầu nhích dần lên trong thời gian này là tâm lý. Theo ông, thời gian gần đây, vàng và USD liên tiếp tăng giá, nhiều khách hàng rút tiền VND nên để thu hút vốn, một số đơn vị đẩy lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam cao lên, khiến cho lãi suất cũng có xu hướng nhích dần lên.
Trong khi đó, một số chuyên gia khác nhìn nhận, việc một số đơn vị điều chỉnh lãi suất mức 0,1-0,2% một năm nói trên là chuyện bình thường.
Phó Giám đốc một ngân hàng quốc doanh lớn chia sẻ, ông không nhìn thấy dấu hiệu lãi bị đẩy lên cao. "Phải tăng từ 0,5 đến 1% một năm mới được gọi là cao, còn mức tăng như hiện nay có thể trong ngày cũng biến động như thế, ở một số ngân hàng", ông nói. Việc một số nhà băng vẫn có xu hướng bám đuổi nhau về huy động vốn đầu vào, ông đánh giá, là do lạm phát vẫn lớn.
Theo ông, thanh khoản VND tại nhiều ngân hàng hiện nay tương đối tốt. Tín dụng bằng đồng VND không tăng nên không có lý do để tăng lãi suất huy động, ông nói. "Nếu lãi suất liên ngân hàng tăng cao chứng tỏ tính thanh khoản đang khó khăn, nhưng những ngày gần đây lãi liên ngân hàng đã giảm rồi, duy trì mức thấp so với thị trường 1 cho thấy thanh khoản đang tốt hơn, hoàn toàn có cơ sở để hạ lãi đầu vào", ông nhận định. Tuy nhiên, nếu lạm phát không được đẩy lùi, lãi suất sẽ vẫn cao, chuyên gia này chia sẻ.
Trao đổi với báo chí, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cho hay, lãi suất có thể giảm về 17-19% từ tháng 9. Đồng thời, ngay trong tháng 8, thay vì các biện pháp hành chính đơn thuần như trước đây, một loạt các biện pháp kinh tế sẽ được tung ra.
http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/thi-truong/2011/08/ngan-hang-van-ganh-nhau-hut-von/


Tuệ Minh
 
Chỉnh sửa lần cuối:

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Vàng hỗn loạn: Soi lỗi nhà quản lý

Tác giả: TS Phạm Minh Trí
Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước

(VEF.VN) - Chúng ta không nên vội vàng đổ lỗi cho giới đầu cơ làm giá, hay người dân, DN đổ xô mua bán vàng theo tâm lý bầy đàn, sơ lạm phát hay kỳ vọng lạm phát mà nên "tiên trách kỷ, hậu trách nhân".

Cách đây vài ngày, thị trường vàng đã lên cơn sốt dữ dội và đã lập ky lục giá 46,3 triệu đồng lượng, cao hơn giá thế giới hơn 2 triệu đồng/lương, lập lại lịch sử thị trường vàng diễn ra hồi cuối năm 2010. Khi đó, chỉ sau một đêm, giá vàng đã tăng 3,5 triệu đồng/lượng, lập kỷ lục giá 38,2 triệu đồng/lượng.

Lần này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã có sự can thiệp tương tự, bằng cách cấp quota nhập vàng nhỏ giọt như đánh du kích.

Ngay sau khi có thông tin NHNN đã cấp quota nhập vàng, dù vàng chưa về, nhưng giá đã giảm đôi chút. Một số nhà phân tích có vẻ lạc quan về tình hình thị trường vàng và cho rằng, dường như nhu cầu không lớn nên chỉ cần một vài đợt nhập khẩu cũng có thể đưa thị trường trở lại ổn định.

Nhưng tiếc rằng, thực tiễn đời sống kinh tế hoàn toàn không đơn giản như chúng ta lạc quan.

Thị trường vàng Việt Nam thuộc loại nhạy cảm nhất thế giới. Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, lạm phát, đồng USD mất giá, chứng khoán giảm sút, thị trường bất động sản đóng băng, khủng hoảng nợ công của Mỹ và một số nước châu Âu,... thế giới có nguy cơ lại rơi vào đợt khủng hoảng hoặc trì trệ mới. Nhiều nước, các tổ chức tài chính quốc tế có nhu cầu tích trữ vàng đã làm cho giá vàng thế giới tăng cao, vượt mốc 1.700 USD/ounce.

vangSGTT13.8_1313141957.jpg

(ảnh minh họa - SGTT)

Thị trường vàng hỗn loạn một phần do lỗi quản lý, điều hành? Tình hình này đã tác động tiêu cực đến thị trường vàng của nhiều nước, nhưng có lẽ hiếm có nước nào chịu tác động và biến động phức tạp như Việt Nam. Vì vậy, điều chúng ta cần suy ngẫm một cách nghiêm túc là chính sách và quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, xem ở đây đang có vấn đề gì, điểm nghẽn nào làm ách tắc, cản trở vàng, khiến các chức năng vốn có trong lịch sử tồn tại của nó chưa phát huy được hết tác dụng.

Chúng ta không nên vội vàng đổ lỗi cho giới đầu cơ làm giá, hay người dân, DN đổ xô mua bán vàng theo tâm lý bầy đàn, sơ lạm phát hay kỳ vọng lạm phát mà nên "tiên trách kỷ, hậu trách nhân".

Bởi vì, có đầu cơ làm giá, hay đổ xô mua bán vàng, tâm lý sợ lạm phát hay kỳ vọng lạm phát là cái có sau. Cái có trước là những nhược điểm, yếu kém trong chính sách, quản lý của chúng ta. Ví như, quy định hạn chế, cấm đoán, xóa bỏ đối với mua bán vàng miếng và những quy định không phù hợp khác. Điều đó gây ra mất cân đối cung cầu, cắt khúc liên thông với thị trường vàng thế giới, hạn chế hoặc cho nhập khẩu vàng một cách nhỏ giọt trong khi cho phép xuất khẩu vàng dễ dàng hơn, hoặc khi vàng lên cơn sốt thì mới cấp quota nhập khẩu ít ỏi.

Cách làm như vậy, chúng ta đã tạo cơ hội vàng cho giới đầu cơ lợi dụng, làm giá, thao túng thị trường. Còn người dân chỉ biết xếp hàng, bất chấp mưa gió chạy theo cơn sốt với kẻ khóc, người cười. Và bản thân vàng, dù là nữ trang hay vàng miếng, thì bao đời vẫn như thế, không có tội tình gì đối với pháp luật và đời sống kinh tế.

Hiện ta chỉ muốn cắt ngọn vấn đề một cách giản đơn, nóng vội là chống đầu cơ, xóa bỏ đầu cơ mà không cần biết đầu cơ do đâu mà ra, là cái có sau, phát sinh khi mất cân đối cung cầu, thị trường bất ổn định.

Giới đầu cơ, làm giá chỉ có thể tác oai, tác quái thị trường vàng khi "đục nước, béo cò", chứ khi thị trường ổn định, bình thường, không có biến động thì đầu cơ không thể làm gì được.
Từ đó cho thấy, chúng ta phải ứng xử với thị trường vàng bằng chính sách thông minh, căn cơ nhằm bảo đảm thị trường được ổn định, quan hệ cung cầu vàng không mất cân đối, giá cả liên thông hợp lý với giá cả thế giới, không để phát sinh biến động giá cả, tạo cơ hội cho giới đầu cơ lợi dụng, thao túng thị trường.

Bởi vì, khi thị trường biến động phức tạp, lên cơn sốt thì mọi biện pháp mang tính hành chính chỉ có tác dụng rất hạn chế.
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Nợ nước ngoài năm 2010: Phía sau con số 32,5 tỷ USD

Nguồn tin: NDHMoney.vn | 14/08/2011 9:38:58 CH

GetThumbnail.axd
Trong năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam đứng thứ hai về mức tăng dư nợ trong khoảng 5 năm gần đây, đưa tổng dư nợ đến cuối năm này lên 32,5 tỷ USD.

Bộ Tài chính vừa công bố bản tin nợ nước ngoài số 7. Theo quy định, dữ liệu về nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh có niên độ báo cáo 6 tháng một lần và ở lần phát hành này, kỳ chốt số liệu là cuối năm 2010.

Không bằng mức tăng “khủng” của 2009 (trên 6 tỷ USD), trong năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam, bao gồm cả nợ Chính phủ trung ương và địa phương, nợ được Chính phủ bảo lãnh, đã tăng thêm gần 4,6 tỷ USD, đứng thứ hai về mức tăng dư nợ trong khoảng 5 năm gần đây, đưa tổng dư nợ đến cuối năm này lên 32,5 tỷ USD.

Nhìn lại 5 năm gần đây, khối nợ nước ngoài đang tăng lên rất nhanh để bù đắp bội chi ngân sách, cùng giai đoạn này liên tục vượt 5% GDP. Nếu như cuối năm 2006, tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh mới khoảng 15,64 tỷ USD, thì số liệu công bố đến thời điểm này đã gấp 2 lần.

Trong mấy năm nợ nước ngoài “nước rút” tiến đến các mức trần an toàn, nhiều chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài cũng thay đổi chóng mặt. Ở chỉ tiêu quan trọng nhất, tổng dư nợ nước ngoài so với GDP đã tăng lên 42,2% vào cuối năm 2010, từ mức 39% của năm trước đó; nợ nước ngoài khu vực công so với GDP đã là 31,1%, từ tỷ lệ 29,3%.

Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là niềm mơ ước của nhiều quốc gia trên thế giới, ngay cả khi chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính toàn cầu thì mức tăng về giá trị gia tăng của nền kinh tế mấy năm gần đây vẫn duy trì ở mức trên 6%.

Nhưng, tốc độ tăng nợ nước ngoài so với chỉ tiêu này liên tục tăng mạnh trong khoảng 5 năm trở lại đây, cho thấy “chi phí” để bù đắp bội chi, hỗ trợ tăng trưởng của nền kinh tế, hay ở khía cạnh khác là giúp cân bằng lại cán cân thanh toán, giảm áp lực lên tỷ giá, dường như ngày càng “đắt” hơn.

Cùng phía các chỉ tiêu kém đi, tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối so với dư nợ ngắn hạn đến cuối năm 2010 chỉ còn đạt 187%, cách biệt xa so với chỉ tiêu này của năm 2007, ở mức 10.177%.

Diễn biến này đi cùng sự bào mòn dự trữ ngoại hối mấy năm gần đây, do thâm hụt cán cân thanh toán diễn ra triền miên với mức độ đáng lo ngại, mất đi khoảng gần một nửa trong giai đoạn 2009-2010.

Tương tự, tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách cũng tăng lên 5,8%, mức cao nhất trong chuỗi số liệu kể từ năm 2006, cho thấy gánh nặng nợ nần ngày càng lớn hơn, trong bối cảnh tăng trưởng và sản xuất không mấy dễ dàng.

Trong khi đó, một vài chỉ tiêu có dấu hiệu tốt lên, ví dụ như nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bằng 3,4%, thấp hơn rất nhiều so với mức 4,2% của năm 2009.

Diễn biến này đi cùng sự phục hồi của hoạt động xuất khẩu trong năm, với mức tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vượt 26,4% so với năm 2009, là năm xuất khẩu rất khó khăn và tốc độ tăng trưởng kim ngạch giảm gần 9%.

Cũng theo bản tin số 7, không kể nợ nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh, đa số các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất thấp, khoảng 84% tổng nợ tương ứng với trên 21,85 tỷ USD có lãi suất dưới 3%.

Ngoài ra, lãi suất từ 3% đến dưới 6% có khoảng 2,15 tỷ USD dư nợ; lãi suất từ 6-10% là 1,89 tỷ USD; lãi suất thả nổi theo LIBOR 6 tháng và Euro LIBOR 6 tháng là 1,96 tỷ USD…

Tuy nhiên, dư nợ ở các mức lãi suất cao đang tăng rất nhanh. Tổng dư nợ nước ngoài có lãi suất từ 3% đến dưới 6% luôn ở quanh mức 1,5 tỷ USD trong suốt giai đoạn từ 2006-2009, đến năm 2010 đột ngột tăng lên mức trên 2,15 tỷ USD; dư nợ lãi suất từ 6-10% cũng đã tăng gấp khoảng hai lần trong năm 2010, đạt gần 1,9 tỷ USD từ mức khoảng 920 triệu USD của năm trước.

Chủ nợ của Việt Nam đã đa dạng hơn trong năm 2010, với nợ Chính phủ, chủ nợ song phương có 15 quốc gia; chủ nợ đa phương có 8 tổ chức. Ngoài ra còn có các ngân hàng thương mại và người nắm giữ chứng khoán, do Việt Nam đã phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trong năm 2010.

Tuy nhiên, cơ cấu dư nợ nước ngoài Chính phủ theo loại tiền còn khá tập trung, chủ yếu là 4 đồng tiền, bao gồm Yên Nhật, SDR (quyền rút vốn đặc biệt - đơn vị tiền tệ quy ước của Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF), USD và EUR, lần lượt chiếm tỷ trọng là 38,8%, gần 27,1%, 22,2% và 9,2%.

Điều này cũng cảnh báo rằng, với mức lạm phát rất cao trong mấy năm gần đây, rủi ro tỷ giá đã và sẽ là vấn đề lớn với Việt Nam. Thêm nữa, với khối nợ đang lớn lên nhanh, khả năng can thiệp của dự trữ ngoại hối còn hạn chế, thì chính sách tỷ giá rất khó để có dư địa điều chỉnh linh hoạt.

Cũng theo bản tin số 7, tổng trả nợ trong kỳ của Việt Nam năm 2010 tương ứng với trên 1,672 tỷ USD (năm 2009 là 1,29 tỷ USD), trong đó riêng trả nợ lãi và phí là 616 triệu USD.

Như vậy, tỷ lệ trả nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 so với tổng thu ngân sách cùng năm (so với 559,17 nghìn tỷ đồng được Bộ Tài chính công bố ngày 1/4/2011) vào khoảng 5,5%. So với tiêu chí của Ngân hàng Thế giới, mức bình thường là từ 12% trở xuống, nghĩa vụ trả nợ vẫn trong ngưỡng an toàn.

Nhưng ở góc nhìn khác, mức tăng nhanh nghĩa vụ trả nợ như hiện nay sẽ giới hạn khả năng Chính phủ có thể giảm mức huy động vào ngân sách từ doanh nghiệp và người dân, hiện được cho là đang ở mức khá cao (6 tháng đầu năm 2011 ước tính vào khoảng 28% GDP).

image_gallery

Nợ Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh qua các năm. Nguồn: Bộ Tài chính, NDHMoney

Bình Minh
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Phạt đơn vị sử dụng lao động Trung Quốc trái phép

SGTT.VN - Ngày 15.8, ông Ninh Công Dũng, phó trưởng Phòng quản lý lao động, sở LĐ-TB và XH tỉnh Đăk Nông cho biết, sở vừa ra quyết định xử phạt 15 triệu đồng đối với ban Quản lý dự án thủy điện Đăk Tik (phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa, Đăk Nông) vì không làm thủ tục cấp phép cho lao động nước ngoài.


Lao động Trung Quốc tại dự án alumin Nhân Cơ. Tại đây có đến 180 lao động Trung Quốc chưa được cấp giấy phép lao động. Ảnh: Phương Duy
Qua kiểm tra, sở này phát hiện tại đây có 2 lao động Trung Quốc làm việc từ tháng 31.3.2011 nhưng đến nay vẫn chưa có giấy phép lao động.
Trước đó, ngày 8.8, Công an tỉnh Đăk Nông cũng đã ra quyết định xử phạt 2 triệu đồng đối với công ty TNHH công nghiệp thực phẩm Pagoda (KCN Tâm Thắng, huyện Cư Jut, Đăk Nông) vì qua kiểm tra, phát hiện đơn vị này không khai báo tạm trú cho lao động nước ngoài đến làm việc.
Theo sở LĐ-TB&XH Đăk Nông, trong 378 lao động nước ngoài (gồm 314 lao động Trung Quốc) đang làm việc tại địa bàn tỉnh, có hơn 180 người chưa có giấy phép lao động. Trong đó, riêng tại dự án Alumin Nhân Cơ (huyện Đăk R’Lấp) có đến 180 lao động Trung Quốc chưa được cấp phép.
Phương Duy
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
NHNN yêu cầu NHTM đẩy mạnh cho vay phục vụ sản xuất lương thực, thực phẩm



Ưu tiên vốn cho sản xuất nông nghiệp; cho vay đối với cơ sở chăn nuôi, các dự án sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với lưu thông lương thực, thực phẩm…với lãi suất hợp lý.


Ngày 15/8/2011 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành văn bản số 6368/NHNN-TD yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) đẩy mạnh cho vay phục vụ sản xuất lương thực, thực phẩm. Theo đó,

Thống đốc NHNN yêu cầu các NHTM tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vốn cho sản xuất - kinh doanh, ưu tiên vốn cho sản xuất nông nghiệp, góp phần duy trì, mở rộng sản xuất để đảm bảo nguồn cung thực phẩm cho thị trường, đảm bảo cân đối cung cầu, bình ổn giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm.

Các NHTM chủ động cân đối nguồn vốn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là các cơ sở chăn nuôi theo quy định hiện hành với lãi suất hợp lý. Ưu tiên cho vay đối với cơ sở chăn nuôi, các dự án, phương án sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với lưu thông lương thực, thực phẩm đến các khu vực tiêu dùng đông dân cư.

Các NHTM có chính sách điều hòa, ưu tiên hỗ trợ nguồn vốn để cho vay cơ sở chăn nuôi, các địa bàn trọng điểm, có nhu cầu cấp bách về vốn để thực hiện đầu tư, tạo vùng và vành đai thực phẩm, rau xanh gắn với phương án lưu thông, phân phối có hiệu quả đã được UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt.

Mặt khác, các NHTM cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay, kịp thời phát hiện và xử lý các khó khăn vướng mắc phát sinh theo thẩm quyền;

Trường hợp khách hàng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, các NHTM thực hiện cơ cấu lại nợ, xử lý nợ vay bị thiệt hại và tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng được tiếp tục vay vốn để duy trì và mở rộng sản xuất theo quy định hiện hành.

Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có khó khăn vướng mắc, các NHTM báo cáo NHNN để xem xét, xử lý kịp thời.

Trên đây là một số nội dung chính của văn bản số 6368/NHNN-TD

Theo SBV
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Bộ Tài chính đề ra 6 giải pháp điều hành giá 5 tháng cuối năm

Thứ ba, 16/08/2011 11:10
110212135305734308.jpg

(DVT.vn) - Theo đó, sẽ tiếp tục kiềm chế lạm phát và thực hiện các biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại hối.

Bộ Tài chính cho biết, nhằm kiềm chế chỉ số giá tiêu dùng ở mức khoảng 17% như chỉ tiêu của Chính phủ đề ra, Bộ đã đưa ra các giải pháp đồng bộ, cụ thể nhằm trước tiên thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tập trung vào 5 giải pháp như sau:

Thứ nhất, Tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn.

Thứ hai, Kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng cầu của nền kinh tế mà Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.

Thứ ba, Bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết là các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thông hợp lý, tránh đẩy chi phí lưu thông tăng cao.


Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế… cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy giá tăng.

Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại hối.

Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích hợp để xoá bao cấp qua giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện…đi đôi với các giải pháp hỗ trợ hợp lý đối với những ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với người nghèo, người có thu nhập thấp, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm anh sinh xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường.

Phương Dung
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Nhập siêu từ Trung Quốc gần 7,5 tỷ USD trong 7 tháng

Thứ ba, 16/08/2011 16:04

Tính hết tháng 7, nhập siêu từ Trung Quốc bằng 140% mức nhập siêu chung của cả nước.

Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 960 triệu USD trong tháng 7, tăng khoảng 15% so với tháng 6 nhưng chỉ chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nhập khẩu từ Trung Quốc trong tháng 7 đạt 1,9 tỷ USD, giảm 5% so với tháng trước và chiếm 23% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Như vậy, trong tháng 7, Việt Nam vẫn nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 1 tỷ USD. Tuy nhiên, tính chung với các nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam xuất siêu 1,1 tỷ USD trong tháng, chủ yếu nhờ xuất khẩu vàng.
Lũy kế 7 tháng, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,56 tỷ USD, trong khi nhập khẩu lên tới 13 tỷ USD. Điều này khiến cho cả nước nhập siêu 7,46 tỷ USD từ Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm, bằng 140% mức nhập siêu của cả nước.
Trong đó, các mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong 7 tháng là vải (1,65 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (1,08 tỷ USD) và máy móc, thiết bị, dụng cụ (2,8 tỷ USD).
Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc đạt 12,6 tỷ USD, bằng 105% mức nhập siêu của Việt Nam trong cả năm.
Nguồn DVT/Tổng cục Hải Quan
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Từ 1/10, lương tối thiểu sẽ lên cao nhất 2 triệu đồng

Chính phủ và các cơ quan thuộc Quốc hội nhất trí với đề án tăng lương tối thiểu ở mọi loại hình doanh nghiệp từ 1/10, theo đề xuất của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
>Lương tối thiểu có thể tăng lên 2 triệu đồng


cong-nhan.jpg
Từ 1/10, lương tối thiểu không còn khoảng cách giữa các loại hình doanh nghiệp. Ảnh: Hoàng Hà. Đợt tăng lương sớm hơn lộ trình lần này là nhằm "bắt kịp" với tình hình biến động giá cả, giảm thiểu khó khăn cho người lao động. Đồng thời, xóa bỏ khoảng cách về lương giữa các loại hình doanh nghiệp. Lâu nay, lương tối thiểu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp FDI luôn cao hơn so với doanh nghiệp khác.
Như vậy, từ 1/10, lương tối thiểu áp dụng trong mọi loại hình doanh nghiệp thuộc vùng 1 sẽ là 2 triệu đồng, tăng 100.000 đồng so với mức dự kiến ban đầu và được đưa ra để lấy ý kiến các bộ ngành đơn vị liên quan. Vùng 2, mức lương tối thiểu áp dụng sẽ là 1,78 triệu đồng, tăng 50.000 đồng so với dự kiến ban đầu. Các vùng 2 và 3 còn lại áp dụng các mức lần lượt là 1,55 triệu đồng và 1,4 triệu đồng, giữ nguyên phương án đề xuất ban đầu.
Nguồn tin từ Quốc hội cho VnExpress biết các mức lương mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã được thông qua. Thời điểm áp dụng đúng như công bố, từ 1/10. Cơ quan này cho rằng tăng lương tối thiểu là việc làm cần thiết nhằm đảm bảo đời sống an sinh xã hội. Phương án lương mới cũng được tính toán thận trọng trên cơ sở điều tiết lợi ích giữa các bên, gồm người lao động - doanh nghiệp và Nhà nước. Do đó, các mức lương tối thiểu Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đệ trình đã sớm được thông qua và sẽ được áp dụng từ 1/10.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng cho biết tại thời điểm đề án tăng lương được trình lên Chính phủ, vẫn còn ý kiến băn khoăn. Một số quan điểm cho rằng mức 2 triệu đồng áp dụng cho vùng 1 vẫn quá thấp so tốc độ tăng giá hàng hóa. Tuy nhiên, khi đưa ra các phương án về lương, Ban soạn thảo tính toán và lựa chọn mức hợp lý trên cơ sở ít tác động nhất đến giá cả. Bởi quy luật nhiều năm nay cho thấy, mỗi đợt điều chỉnh lương, giá một số mặt hàng lại có cớ để "té nước". Trong khi, bối cảnh lạm phát hiện tại, nếu không điều chỉnh lương thì đời sống của người dân khó khăn.
Đề xuất tăng lương tối thiểu ở mọi loại hình doanh nghiệp lần đầu tiên được công bố là tại phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 6. Đại diện Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho biết đợt tăng này sớm hơn lộ trình 2 tháng nhằm chia sẻ khó khăn với người lao động.
Hồng Anh
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Giải mã nền kinh tế ngầm tại Việt Nam



"Nền kinh tế ngầm" của Việt Nam rất mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao, các họat động này sẽ cứu nguy tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi?

Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên gia níu lấy cái phao khó phản bác là "nền kinh tế ngầm" của Việt Nam rất mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao, các họat động này sẽ cứu nguy tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi.

Những ngày qua, tình hình kinh tế thế giới biến đổi nhanh chóng. S&P hạ cấp tín dụng nước Mỹ; vàng vượt 1,700 dollar một lượng; Dow Jones rớt hơn 1,300 điểm trong vài ngày; Trung Quốc chửi Mỹ thậm tệ vì làm sụt giảm giá trị dollar (coi bài Kẻ Cắp gặp Bà Già để hiểu thêm mánh mung của hậu trường chính trị). Cá nhân tôi có thể "gáy" to với bạn bè: tôi đã khuyên là cứ ôm lấy "vàng" 4 năm về trước; tôi đã đóan trước một năm các cuộc khủng hỏang tài chính 2007 và 2011 từ bong bóng BDS, rồi nợ công vì kích cầu, và lạm phát vì in tiền bừa bãi.

Nhưng thực sự, tôi phải thú nhận là những kiến thức chính xác này tôi đã "trộm" được sau khi lắng nghe những mẫu chuyện bình thường của các anh chị lao công, các người mua bán hàng lẻ nhỏ, các nhân viên cấp thấp của văn phòng... trong giao thiệp hàng ngày. Không gì nguyên bản.

Các chuyên gia kinh tế thường chỉ nhìn vào số liệu thống kê từ chánh phủ và đưa ra kết luận dựa trên sách vở từ tháp ngà nghiên cứu, nên đến 90% không biết chuyện gì đang xẩy ra và chuyện gì sẽ sắp đến. Như con ngựa bị bịt mắt hai bên, chỉ biết cắm đầu trên con đường trước mặt.

Trong viễn ảnh bi quan, nhiều chuyên gia níu lấy cái phao khó phản bác là "nền kinh tế ngầm" của Việt Nam rất mạnh, lượng dự trữ vàng và ngoại hối rất cao, các họat động này sẽ cứu nguy tình trạng vĩ mô, và chúng ta sẽ ổn thôi. Theo ước tính, nền kinh tế ngầm của Trung Quốc và Việt Nam có thể chiếm 30 đến 45% GDP, so với khỏang 8% bên Mỹ. Lý do là tín dụng cá nhân ở đây không phổ biến như bên Mỹ và các giao dịch tiền mặt lên đến 65% tổng số thương vụ. Giả thuyết này khá thuyết phục vì không ai rờ nắm được hiện trạng thực hư của con số dự phóng.

Tuy nhiên, một sự kiện nhỏ trong gia đình làm tôi "vấn đáp" lại tiêu đề này. Bà ô sin trong nhà có một bà chị buôn bán tạp hóa tại một xã nhỏ ở Hậu Giang. Thương vụ chừng 7 triệu một tháng; và ước tính lạc quan nhất cho bà một lợi tức khoảng 2 triệu một tháng hay 24 triệu một năm. Bà vừa phải trốn khỏi xã sau khi không trả nổi số nợ lên đến khỏang 350 triệu. Sự phá sản của bà tạo phản ứng dây chuyền và sau đó có hơn 20 người phải đi trốn nợ. Cho đến nay, mọi người lên quan vẫn tìm cách giải quyết là đi vay nợ thêm từ nhiều thành viên khác của gia đình bạn bè. Hệ thống "hụi", nợ trả góp từ cá nhân, vay mượn từ bạn bè gia đình... từ xưa đã thành một tập tục phổ thông khắp xã hội, và hệ thống ngân hàng không chánh thống này được nhiều chuyên gia đánh giá cao về hiệu quả.

Tôi nhận thấy ngay khác biệt giữa tín dụng "ta" và "tây". Các mạng truyền thông thường nêu ra khuyết điểm lớn nhất của nền kinh tế Mỹ là tín dụng cho các người tiêu dùng chiếm tỷ lệ quá cao trên tổng số tín dụng của quốc gia (hơn 30% của 40 ngàn tỷ dollar).

Khi tỷ lệ thất nghiệp vượt 10%, thu nhập để trả tiền nhà, tiền xe, tiền thẻ (credit cards) không đủ, tạo nên những thất thóat lớn cho ngân hàng. Trong khi đó, một chuyên gia nói với tôi là ở Việt Nam, phần lớn tín dụng là dành cho các doanh nghiệp, thay vì cá nhân, nên hiểm họa nợ xấu do ăn tiêu quá mức khó xảy ra. Ông quên rằng hơn 40% nợ vay ngân hàng là để đầu tư vào bất động sản, chứng khóan hay các họat động thương mại phiêu lưu khác, dù mọi người vẫn hay lách luật bằng những tên gọi khác nhau.

Dĩ nhiên, sự tiêu xài của người Mỹ là một vấn nạn; thêm vào đó, các chánh phủ Mỹ đã lợi dụng yếu điểm này của người dân để làm lực đẩy cho GDP, lấy thuế cho ngân sách, gia tăng quyền lực của quan chức, chi tiêu cho những phiêu lưu quân sự của đế chế và vay tiền bừa bãi.

Nhưng dù tiêu xài cao, phần lớn nợ tư của các gia đình bị giới hạn vào chỉ tiêu cho vay của ngân hàng, vì khó mà đi vay từ cá nhân ở Mỹ. Thông thường, vay nợ để mua nhà được tài trợ khỏang 25% dựa trên khả năng trả nợ (thu nhập) và ngân hàng cho thêm khoảng 15% cho các nợ xe, nợ thẻ và các nợ khác. Tóm lại, nếu bạn có 5 ngàn dollar lợi tức mỗi tháng (trừ ra khỏang 800 dollar thuế) thì số nợ tối đa theo giấy tờ là vào 1,680 dollar mổi tháng. Số nợ an tòan là $300,000 cho một căn nhà trả 30 năm với lãi suất 5.5% và nợ xe, nợ thẻ khỏang $60,000 với lãi suất 10% trung bình.

Quay lại chuyện Việt Nam, nếu gia đình bà bán hàng nói trên chỉ có 2 triệu lợi tức, bà chỉ được vay tối đa chừng 30 triệu với lãi suất 20%. Khi bà nợ đến 11 lần khả năng trả nợ thì sớm muộn gì bong bóng cũng vỡ, dù ở Việt Nam hay Mỹ. Sự thiếu minh bạch về hệ thống tín dụng và khả năng thu nhập đã gia tăng rủi ro rất cao. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi một báo cáo về "hụi" cho thấy họat động này khá phổ biến vì tổng số được ước tính đến 22% tổng số nợ của ngân hàng. Ngòai bong bóng bất động sản đã bắt đầu xì hơi, một bong bong nợ cá nhân khắp xứ sẽ khiến nhiều ngân hàng chao đảo, vì có rất nhiều người với khả năng vay ngân hàng đã dùng tiền này để cho vay lại ngòai tư nhân, tìm khoản lời sai biệt.

Nhiều người cũng so sánh Việt Nam với Trung Quốc nơi nền kinh tế ngầm cũng rất phát triển và hiện tượng hụi cũng rất phổ thông. Sống ở Trung Quốc 15 năm qua, tôi nhận xét một điều là nói chung, dân Tàu thực sự cần kiệm (dù không bằng Ấn Độ) hơn dân ta nhiều. Thống kê của Visa International về mức độ tiêu xài cá nhân xác định Việt Nam dẫn đầu bảng, và nếu tính theo thu nhập đầu người, chúng ta qua mặt cả dân Mỹ về mặt tiêu xài. Ngay cả trong lãnh vực sản xuất, tôi cũng nghe và biết khá nhiều khoản vay mượn ngòai luồng của các doanh nghiệp với lãi suất chóng mặt (5% một tháng) để sống còn.

Nền kinh tế ngầm Việt Nam có thực sự đủ mạnh để giúp mọi người vựơt qua bão lớn? Tầm ảnh hưởng của nó như thế nào với hệ thống ngân hàng, với bong bong bất động sản, với mức tiêu dùng của người dân? Nó tùy thuộc thế nào vào lượng kiều hối, vào kênh đầu tư vàng, vào sự trú ẩn an tòan của lượng tiền nhàn rỗi?

Như đã nói từ đầu, tôi nghĩ là kinh tế tòan cầu sẽ lâm vào cảnh suy phát (stagflation) trong 4 đến 6 năm kể từ 2012. Bài viết này đặt ra vài câu hỏi để chúng ta bàn luận vì kết quả thực sự sẽ thay đổi những dự phóng về khả năng vượt bão của Việt Nam trong những năm tới. Hỏi thế thôi, chứ bất cứ kết luận nào, dù tích cực hay tiêu cực cũng đều có sác xuất đúng sai như nhau.

Nhưng khi quyết định kinh doanh hay đầu tư, doanh nhân cũng nên suy nghĩ thêm về yếu tố này.
TS Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hong Kong và Shanghai. Du học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông sống và làm việc tại Trung Quốc từ 1999. T/S Phan tốt nghiệp BS tại Penn State (Mỹ), MBA tại American Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex (Anh) và DBA tại Southern Cross (Úc). Ông đã xuất bản 7 cuốn sách bằng Anh và Việt ngữ. Email của ông là aphan@asiamail.com và Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.
Theo Tuần Việt Nam
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Chính sách tiền tệ hiện không làm lạm phát tăng thêm

Theo TS Lê Thẩm Dương NH Nhà nước nên mạnh tay bơm thêm tiền để tín dụng tăng thêm 5%, sao cho lãi suất đầu vào thực tế luôn ở mức 14%/năm.

1313549891_Le%20Tham%20Duong%201.jpg


Thị trường lãi suất đang có những tín hiệu cho thấy có thể hạ nhiệt. Tuy nhiên, từ nay đến cuối năm 2011, lãi suất phải vượt qua nhiều thách thức mới có thể giảm xuống như kỳ vọng.

Lắng dịu cơn khát vốn
Ngày 15-8, tình hình lãi suất huy động của các ngân hàng (NH) vẫn còn nhiều cách biệt. Tại một số NH bậc trung, lãi suất tiền gửi tiết kiệm dưới 100 triệu đồng từ 14%/năm trở xuống, còn số tiền gửi trên 100 triệu đồng lãi suất thực tế phổ biến khoảng 16%-16,5%/năm.
Trong khi đó, một NH khác ở TPHCM huy động tiền gửi VNĐ thực tế 17%/năm, áp dụng cho người gửi số tiền 300 triệu đồng trở lên. Tại nhiều NH, lãi suất niêm yết loại kỳ hạn 1-3 tuần lại cao hơn lãi suất kỳ hạn 1-3 tháng, điều này cho thấy các NH không dám huy động vốn lãi suất cao đối với loại kỳ hạn dài vì e ngại lãi suất sẽ giảm trong thời gian tới.

Do đầu ra bị thắt chặt, nguồn vốn ra vào tương đối ổn định… nên cuộc đua huy động vốn của các NH đã bớt căng thẳng. Tại thời điểm này, lãi suất đầu vào đã giảm 1%-2% so với 3 tháng trước, kéo lãi suất đầu ra giảm theo. Số liệu của NH Nhà nước cho thấy tháng 7 - 2011, lãi suất cho vay bằng VNĐ đối với sản xuất kinh doanh đã giảm 0,1% - 0,3%/năm; lãi suất cho vay trung bình ở mức 18,64%/năm. Bảy tháng đầu năm 2011, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 7,57%; riêng tháng 7-2011 lại giảm 0,19% so với tháng trước.

Mới đây, Thống đốc NH Nhà nước Nguyễn Văn Bình tuyên bố: Chính sách tiền tệ không phải thắt chặt mà là chặt chẽ để bảo đảm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế hợp lý… Trong tháng 8-2011, NH Nhà nước sẽ tung ra một loạt biện pháp kinh tế để từ tháng 9-2011, lãi suất cho vay lùi về 17% -19%/năm...

Nhiều yếu tố hỗ trợ
Giới phân tích cho rằng tăng trưởng tín dụng trong 7 tháng đầu năm 2011 chỉ tăng khoảng 30% so với chỉ tiêu là 20%, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế tăng 3,57%, trong khi kế hoạch cả năm 2011 là 16%... Những yếu tố này đang tạo điều kiện thuận lợi cho lãi suất đi xuống. Việc tăng trưởng tín dụng, phương tiện thanh toán… đang ở mức thấp nhưng lạm phát vẫn cao cho thấy tín dụng và phương tiện thanh toán không phải là nguyên nhân chính làm gia tăng lạm phát.

Do đó, từ nay đến cuối năm 2011, “dư địa” cho tăng trưởng tín dụng và phương tiện thanh toán còn rất lớn, số lượng tiền bơm vào lưu thông sẽ nhiều hơn. Các NH sẽ dồi dào vốn nhưng nếu cho vay với lãi suất cao, khách hàng sẽ không vay, chẳng khác gì NH ôm vốn. Khi đó, lãi suất buộc phải đi xuống.

Những thách thức cần vượt qua

Trong khi đó, lãnh đạo nhiều NH cho biết không thể hạ thêm lãi suất nếu NH Nhà nước không có chính sách nới lỏng tiền tệ. Cụ thể, NH Nhà nước cần tăng thêm cung tiền qua thị trường mở (địa chỉ để các NH thương mại thế chấp các loại giấy tờ có giá vay vốn từ NH Nhà nước), đồng thời hạ lãi suất vay vốn từ NH Nhà nước đang ở mức 14%-15%/năm xuống còn 12%/năm mới kéo được lãi suất tiết kiệm đi xuống, từ đó giảm thêm lãi suất cho vay.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng việc hạ lãi suất đang đứng trước không ít thách thức. Đó là sự tăng giá của nhóm hàng lương thực, thực phẩm, giáo dục…, đặc biệt là tỉ giá hối đoái thường tăng vào thời điểm cuối năm, sẽ ảnh hưởng đến giá cả nhiều loại hàng hóa khác, có thể ảnh hưởng không tốt đến mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 17%.

Theo TS Lê Thẩm Dương, Trưởng Khoa Quản trị kinh doanh - Trường Đại học NH TPHCM, chính sách tiền tệ hiện không làm lạm phát tăng thêm. Điều này đòi hỏi các giải pháp về đầu tư, chi tiêu công, bình ổn giá… phát huy tác dụng triệt để; đặc biệt giá xăng dầu phải giảm theo thị trường quốc tế mới kiềm chế được lạm phát.
Về cung tiền, ông Dương cho biết hạn mức tăng trưởng tín dụng còn trên 12%, NH Nhà nước nên mạnh tay bơm thêm tiền để tín dụng tăng thêm 5%, sao cho lãi suất đầu vào thực tế luôn ở mức 14%; đồng thời nguồn vốn bơm thêm vào thị trường cần phân bố đúng địa chỉ, từ đó góp phần giảm lãi suất đầu ra.

Thy Thơ
Theo NLĐ
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Ngân hàng quốc doanh giảm lãi suất cho vay xuống 17%/năm

Thứ năm, 18/08/2011 07:35

Lãi suất cho vay tại các ngân hàng ngoài quốc doanh từ 21 - 24%/năm và các công ty tài chính từ 20 - 22%/năm.

7cb62_VND-72.jpg

Theo ĐTCK ngày 18/8, khảo sát thị trường tiền tệ cho thấy, lãi suất cho vay VND đang có dấu hiệu giảm nhẹ.

Tại Vietinbank, Vietcombank và các ngân hàng quốc doanh, lãi suất cho vay VND dao động từ 17 - 21%/năm. Các ngân hàng ngoài quốc doanh từ 21 - 24%/năm và các công ty tài chính từ 20 - 22%/năm.

Một lãnh đạo cấp cao tại Maritime Bank nhận xét, các ngân hàng bắt đầu có xu hướng giảm nhẹ lãi suất cho vay VND, nhưng vẫn hạn chế đối với các khoản cho vay tiêu dùng, nhằm kích thích nhu cầu vay vốn của hộ kinh doanh và doanh nghiệp sản xuất.

Không những giảm lãi suất cho vay với các doanh nghiệp nói chung, nhiều ngân hàng còn ưu đãi lãi suất cho một nhóm đối tượng riêng biệt, như cho vay tài trợ xuất khẩu, giải pháp vốn cho các doanh nghiệp ngành phân bón, thủy hải sản, thức ăn chăn nuôi…

Lý giải về xu hướng giảm lãi suất dù còn khá dè dặt, lãnh đạo một số ngân hàng cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, thanh khoản cũng như vốn của các tổ chức tín dụng tương đối tốt.

Lãi suất liên ngân hàng VND kỳ hạn qua đêm tuần qua đã giảm còn khoảng 10%/năm, giảm 2%/năm so với tuần trước đó, trong khi các kỳ hạn 1 - 2 tuần cũng giảm nhẹ, hiện ở mức 11 - 14%/năm.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cũng cho biết, hơn 2 tháng nay, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng luôn bình ổn, dao động trong khoảng 12 - 15%/năm, phụ thuộc vào các loại hình giao dịch.

"Khi vốn đã có, giữa các ngân hàng vay mượn lẫn nhau với lãi suất tối đa khoảng 15%/năm nghĩa là vốn cho nền kinh tế đã sẵn sàng", ông Bình nói.

Đặc biệt, cán bộ tại một ngân hàng cổ phần cỡ vừa cho biết, hiện lãi suất huy động của ngân hàng này đã giảm rõ rệt. Khoản huy động cho món tiền cao nhất của cá nhân hiện không quá 18%/năm và đối với doanh nghiệp là 18,5%/năm. Mức lãi suất cho vay doanh nghiệp sản xuất của ngân hàng này hiện dao động trong khoảng 21 -23,5%/năm dựa theo thứ tự xếp hạng doanh nghiệp của ngân hàng.
Nguồn ĐTCK
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Kiều hối đổ vào bất động sản đang tăng mạnh

BẢO ANH
18/08/2011 15:49 (GMT+7)

bdsNguyenTu.jpg


Có đến 52% lượng kiều hối được đổ vào lĩnh vực bất động sản, theo khảo sản của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia - Ảnh: Từ Nguyên.


Dù thị trường bất động sản trầm lắng từ đầu năm đến nay, song lượng kiều hối đổ vào lĩnh vực này lại đang tăng mạnh.

Thông tin trên được TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đưa ra tại hội thảo “Tác động của thị trường bất động sản lên thị trường tài chính”, do cơ quan này tổ chức sáng nay (18/8).

Theo đó, kết quả điều tra 4.000 hộ nhận kiều hối mới đây cho thấy, có tới 52% kiều hối được đầu tư vào bất động sản, số còn lại được dùng để gửi tiết kiệm và tiêu dùng. Thống kê của cơ quan này cũng cho thấy, lượng kiều hối đổ vào bất động sản trong thời gian qua đang tăng nhanh.

Tuy nhiên, cũng theo thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, trong khi lượng kiều hối đổ vào bất động sản đang có xu hướng tăng nhanh thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào bất động sản giảm mạnh. Theo đó, vốn đăng ký từ mức 26,6 tỷ USD năm 2008 xuống 6,84 tỷ USD năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011 chỉ còn 305 triệu USD.

Liên quan đến tình hình dư nợ bất động sản, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, tính đến cuối tháng 6/2011, dư nợ bất động sản của các tổ chức tín dụng là khoảng 245.000 tỷ đồng, tương đương với 10% tổng dư nợ của nền kinh tế, trong đó nợ xấu bất động sản chiếm khoảng 3%.

Đặc biệt, đáng chú ý là nợ thuộc nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) chiếm khoảng 40%. Tín dụng bất động sản chủ yếu tập trung vào hai thị trường Tp.HCM và Hà Nội với tỷ lệ tương ứng là 45% và 18% tổng dư nợ bất động sản.

Theo ông Nghĩa, rủi ro của bất động sản đối với hệ thống ngân hàng hiện nay không phải là không có. Bởi trong khi dư nợ tín dụng bất động sản của chúng ta là khoảng 10% thì các nước trong khu vực Đông Nam Á lại chỉ khoảng 6 -7%.

Hơn nữa, rủi ro lại tập trung ở các ngân hàng nhỏ với việc các cổ đông của ngân hàng lại chính là các chủ các dự án bất động sản.
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
Bất ngờ huy động được 2.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ

Nguồn tin: NDHMoney.vn | 18/08/2011 7:36:57 CH

GetThumbnail.axd


Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vừa thông báo kết quả đấu thầu trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành, được tổ chức ngày 18/8.

Cụ thể, Kho bạc Nhà nước đã gọi thầu 1.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm (22/8/2011 - 25/7/2014) và 1.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm (22/8/2011 - 25/7/2016).

Kết quả, Kho bạc Nhà nước huy động thành thành công 1.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm với lãi suất trúng thầu là 12,39%. Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu gần 1.007,5 tỷ đồng.

Trái phiếu kỳ hạn 5 năm cũng gọi thầu hết 1.000 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu là 12,48%. Tổng số tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu gần 1.009,5 tỷ đồng.

Trước đó, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức 3 lần đấu thầu nhưng tỷ lệ huy động vốn thành công so với gọi thầu đạt cao nhất là 25% và thấp nhất dưới 10%.

Đây được xem là một phiên đấu thầu thành công không những đối với số vốn huy động được, mà lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm còn 12,48%, từ mức 12,5% trước đó.

Kết quả đấu thầu trái phiếu
image_gallery
Huyền Thương
 

khuat van ninh

New member
5 Tháng tám 2011
867
0
0
'Lương Bộ trưởng 40 năm mới mua được nhà thu nhập thấp'

Nguồn tin: VnExpress.net | 18/08/2011 9:47:00 CH


GetThumbnail.axd
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam, nếu chỉ trông vào lương, người nghèo đừng nghĩ đến nhà thu nhập thấp, vì "lương cỡ Bộ trưởng cũng phải 40 năm mới đủ tiền mua".

Tại hội thảo Tác động của thị trường bất động sản lên thị trường tài chính Việt Nam, những khuyến nghị chính sách tổ chức ngày 18/8, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam khẳng định, với giá cả nhà và mức lương như hiện nay, người nghèo không thể mua được nhà thu nhập thấp.

Một bác sĩ trưởng khoa từng tâm sự với ông Nam lương nuôi thân không đủ, chưa dám nghĩ đến chuyện mua ôtô, lại càng không dám mơ đến việc mua nhà.

Cũng theo ông Nam, để giải bài toán nhà thu nhập thấp, Nhà nước và doanh nghiệp cần có giải pháp kéo giá nhà xuống, bằng cách ưu đãi chính sách, điều chỉnh quy mô và độ hoàn thiện của căn nhà ở mức hợp lý, đồng thời phải nâng dần thu nhập, mức sống của người dân.

Theo lãnh đạo Bộ, đặt bài toán cho ngành xây dựng là phải làm nhà để người có mức lương 2 triệu đồng mua được nhà là điều không thể. "Nếu chỉ trông chờ vào đồng lương, đừng nghĩ đến chuyện mua nhà. Cỡ như Bộ trưởng, chúng tôi tính còn 40 năm mới mua được", ông Nam thẳng thắn.

Nguồn cơn khiến ông Nam phải phát biểu như vậy là gần đây dư luận bức xúc giá nhà thu nhập thấp quá cao so với khả năng chi trả của lao động nghèo. Thậm chí có người tính toán với thu nhập dưới 5 triệu một tháng, họ phải nhịn ăn, nhịn uống, nhịn mặc ròng rã 15 năm mới mua được nhà.

Trên thực tế, các dự án ở Hà Nội hiện nay như Đặng Xá, Kiến Hưng, Ngô Thì Nhậm, Sài Đồng dao động ở mức gần 10 triệu đến 13,27 triệu đồng mỗi m2. Mức giá này thấp bằng nửa giá chung cư bình dân trên thị trường, song vẫn quá khả năng chi trả của nhiều người thuộc diện nghèo chỉ biết trông vào đồng lương. Vì thế mà có những người sau tháng ngày ròng rã chờ vận may nhưng đến khi trúng suất mua lại đành từ chối vì không kham nổi. Ở dự án Sài Đồng, nhiều trường hợp đã từ chối ký hồ sơ, trả lại nhà.

Ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia, cho hay, Việt Nam có tốc độ tăng dân nhập cư nhanh, trong đó, việc cấp phép, thủ tục đất đai không minh bạch, gây rủi ro rất lớn với bất động sản. Giá bất động sản thường tăng gấp 3-4 lần so với thu nhập bình quân đầu người dẫn đến người nghèo ngày càng ít cơ hội tiếp xúc với nhà ở. Ông Nghĩa đưa ra minh họa, nhà ổ chuột đang tăng nhanh, ngoài bờ đê Sông Hồng, có tới hàng vạn ngôi nhà không có chút tiện nghi, trong khi đó, giá nhà đất lại tăng cao chóng mặt.

Do đó, theo ông Nghĩa, để giải quyết nhu cầu nhà ở, nhà giá rẻ cần được khuyến khích xây dựng. Tuy nhiên, phi lý ở chỗ, doanh nghiệp Việt Nam vẫn đua xây nhà diện tích lớn, thiết bị bóng lộn. "Trong khi Trung Quốc chỉ làm 40-50 m2 thì Việt Nam làm đến 70 m2. Nhà dành cho người thu nhập thấp nhưng bên trong tiện nghi, bóng lộn, giá cao ngất, tôi e rằng, không có người nghèo nào mua được", ông Nghĩa lo ngại.

Đồng tình với quan điểm trên, ông Nguyễn Văn Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam thẳng thắn nhận định, thực tế, các sản phẩm nhà thu nhập thấp đến với người dân đang "có vấn đề". Mặc dù nhà bán cho người nghèo nhưng tiến độ đóng tiền dồn dập, giá cả chót vót, lên đến 13,27 triệu đồng mỗi m2 khiến người dân không thể tiếp cận được. Với đồng lương ít ỏi, người dân không đủ tiền mua nhà và họ không thể vay ngân hàng với lãi suất cao ngất ngưởng như hiện nay.

"Suất đầu tư của Bộ Xây dựng quy định chỉ khoảng 8 triệu mỗi m2 nhưng nhà thu nhập thấp lên tới hơn 13 triệu đồng. Tôi cho rằng, cần làm chặt hơn vấn đề hậu kiểm", ông Minh kiến nghị.

Lý giải về giá nhà thu nhập thấp bị đẩy cao, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho rằng, thực tế, các ưu đãi cho doanh nghiệp chưa nhiều. Nhà nước hỗ trợ tiền sử dụng đất và cho phép doanh nghiệp tăng mật độ xây dựng và mật độ sử dụng đất. Còn lại các ưu đãi về thuế mới chỉ áp dụng trong năm 2009, khi chưa có dự án nhà thu nhập thấp nào được triển khai và doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn vay từ ngân hàng phát triển Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Nam, mặc dù được miễn tiền sử dụng đất, doanh nghiệp vẫn phải đền bù giải phóng mặt bằng dẫn đến giá nhà bị đẩy cao. Giá nhà thu nhập thấp càng gần trung tâm càng đắt là điều dễ hiểu. Lãnh đạo Bộ khẳng định, giá nhà thu nhập thấp Sài Đông, Đặng Xá đều đã được UBND thành phố kiểm tra "ra tấm ra món" và doanh nghiệp chỉ được lãi tối đa 10%. "Tiền đền bù cao, hạ tầng đắt, mức độ hoàn thiện tốt thì giá sẽ đắt hơn. Nếu người dân mua 6,7 triệu đồng thì phải ra xa, đơn cử Thanh Hóa chỉ bán 6,9 triệu đồng mỗi m2", ông Nam khẳng định.

Ngoài ra, theo lãnh đạo Bộ Xây dựng, một trong những lý do khiến giá nhà bị đẩy cao là doanh nghiệp chuộng nhà to. Quy định cho phép nhà có diện tích từ 30 đến 70 m2, thì doanh nghiệp làm hết mức tối đa cho phép, mỗi nhà lên đến 58-70 m2. Theo Thứ trưởng Nam, doanh nghiệp cần định vị lại chiến lược kinh doanh cũng như nhu cầu của người dân. Ông Nam dẫn chứng, có vị đại biểu Quốc hội ở nhà có 6 m2, do đó, căn hộ rộng 30 m2, sạch sẽ khép kín là điều mơ ước với nhiều người. "Tôi khuyến nghị doanh nghiệp chỉ nên làm nhà nhỏ, diện tích 30 m2 thì mỗi căn hộ chỉ khoảng 300 triệu đồng. Như thế người dân sẽ dễ tiếp cận hơn", ông Nam khuyên.

Song Linh- Hoàng Lan