Vùng đất địa linh của Họ Khuất xứ Đoài

CHÀNG TRAI CÓ TÀI THUYẾT PHỤC

Tôi được chị Hạ Chí Nhân (con gái nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt) nhiệt tình cung cấp những tài liệu liên quan tới người bác ruột của mình. Tại nhà riêng, giữa rất nhiều tư liệu được sưu tầm công phu, chị đã xúc động kể lại những câu chuyện về người bác mà chị kính trọng gọi là “Ba Tiến”.

“Bác Khuất Duy Tiến là anh ruột mẹ tôi, nhưng giống như rất nhiều người cháu họ Khuất, chúng tôi vẫn quen gọi ông là ba Tiến”. Chị Nhân kể rằng, từ khi còn nhỏ cũng như hiện nay, mỗi lần chị về quê, bà con làng Thuần Mỹ (xã Trạch Mỹ Lộc, Phúc Thọ, Hà Nội) và nhiều người thân trong dòng tộc vẫn tự hào ôn lại những câu chuyện tưởng như bất tận về ông. Từ những câu chuyện ấy, chị đã có dịp hiểu kỹ hơn về một nhà cách mạng được sinh ra, lớn lên trong một dòng họ hiển vinh, có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Ông còn là “cậu ấm” duy nhất trong một gia đình có 8 người con và thân phụ ông, cụ Khuất Duy Tiết, từng giữ chức Chánh tổng Tường Phiêu, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (cũ). “Khi đọc lý lịch của mẹ, tôi được biết ông ngoại tuy là Chánh tổng nhưng lại có tính thương người. Một lần, cụ ra kiểm tra đê, rồi nhận trực thay để người canh đê về ăn cơm, nghỉ ngơi. Tác phong gần gũi, thương dân ấy đã khiến cụ không được lòng quan và cả chính quyền thực dân, và đó cũng là nguyên nhân dẫn tới việc sau này cụ bị mất chức Chánh tổng”, chị Nhân cho biết.

unnamed
 

Vào thời điểm trước khi xã Trạch Mỹ Lộc có tổ chức cách mạng, Khuất Duy Tiến đã cùng bạn bè sớm tham gia các phong trào yêu nước do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Thực dân Pháp không thể ngờ, ngôi nhà kín cổng cao tường của Chánh tổng Tường Phiêu lại chính là nơi nhiều bạn bè cùng chí hướng với Khuất Duy Tiến như Trần Huy Liệu, Trường Chinh thường xuyên lui tới hoạt động cách mạng. Vốn là một thanh niên thông minh, có chí tiến thủ, ông đã tìm đến với các sách báo tiến bộ của Đảng đang được lưu truyền bí mật. 17 tuổi, Khuất Duy Tiến theo học Cao đẳng Thương mại Đông Dương. Vốn là người thông minh, học giỏi nên trong thời gian học ở trường, ông được bạn bè thân mật đặt cho cái tên là “Tiến to đầu”. Sau này, biệt danh ấy đã theo ông suốt cuộc đời, đến mức vào nhà tù thực dân, ông cũng bị kẻ địch gọi là “Tiến to đầu” với một nghĩa khác là “kẻ bày trò”, “kẻ cứng đầu”.

Năm 1936, Khuất Duy Tiến được trả tự do và tiếp tục về hoạt động tại Hà Nội. Hai năm sau, với chủ trương cài người vào hoạt động công khai, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ông ra tranh cử Nghị viên TP. Hà Nội. Ngày đó, mặc dù đã ở vào tình cảnh khó khăn sau khi người cha bị mất chức Chánh tổng, nhưng gia đình đã cố gắng thu vén bán ruộng, vườn để ông có được một khoản tiền tham gia tranh cử. Năm ấy, Khuất Duy Tiến trúng cử với số phiếu cao, nhưng dường như “đánh hơi” thấy mầm họa, thực dân Pháp đã hủy bỏ kết quả bầu cử và đưa ông về quản thúc tại quê nhà. Chính trong thời gian quản thúc ở làng Thuần Mỹ, nhờ uy tín của ông mà các tài liệu, sách báo của Đảng đã đến với thanh niên yêu nước trong làng, xã. Đầu năm 1940, tổ chức Thanh niên Phản đế làng Thuần Mỹ được thành lập. Ban đầu, tổ chức chỉ bao gồm những người ruột thịt trong gia đình ông như: Khuất Thị Thuân, Khuất Thị Bảy, Khuất Thị Quyên… Đến tháng 1-1941, toàn xã đã có hơn 100 đoàn viên, thanh niên Phản đế Đông Dương. Từ đây, phong trào cách mạng của xã ngày càng phát triển và lan rộng sang các địa phương khác.

Trong ký ức của những người thân, nhà cách mạng Khuất Duy Tiến còn là một người có tài vận động, thu hút quần chúng rất hiệu quả. Chị Nhân kể: “Bác tôi nói chuyện hay tới mức sau này khi sức khỏe giảm sút, trên giường bệnh ông vẫn kể những câu chuyện chiến đấu, những lần hoạt động cách mạng làm những đứa trẻ như tôi cứ tròn xoe mắt mà nghe vì hấp dẫn. Nhiều lúc tôi tự hỏi, dường như trong ông có một sự truyền cảm và tài năng thuyết phục người khác là nhờ sự giản dị, ấm áp toát ra từ vầng trán rộng, đôi mắt sáng cùng tiếng cười, giọng nói sảng khoái? Tôi còn nhớ mỗi khi gặp người thân hoặc đồng đội, ông thường có thói quen siết chặt tay, mạnh đến mức người đối diện phải thốt lên vì đau”.
Nhờ tài thuyết phục quần chúng của ông mà năm 1936 khi bị quản thúc ở quê, ông đã vận động các chị, em gái rồi mọi người trong xã nghe ông kể về nỗi thống khổ của một người dân mất nước, kêu gọi họ đi theo Việt Minh để giành độc lập dân tộc. Tháng 3-1945, sau khi vượt ngục Sơn La về Hà Nội chuẩn bị tham gia giành chính quyền, ông đã vận động giới công thương Hà Nội đóng góp tài chính cho hoạt động cách mạng. 
Nói tới khả năng thuyết phục quần chúng của nhà cách mạng Khuất Duy Tiến, bà Hoàng Thị Minh Hồ, người đã có nhiều đóng góp về vật chất cho cách mạng trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kể: “Hôm ấy, ông Khuất Duy Tiến được một người bạn đưa đến nhà tôi. Từ 11 giờ trưa cho đến 5 giờ chiều, ông đã nói với vợ chồng tôi về hoạt động của Việt Minh. Ông Tiến bảo: “Việt Minh bây giờ cần rất nhiều tiền, bởi trong quỹ bây giờ chỉ có mấy trăm đồng bạc”. Nghe ông Tiến vận động, tôi đồng ý ủng hộ cách mạng một vạn đồng Đông Dương. Tới ngày Tổng khởi nghĩa, ông Tiến lại đưa vợ chồng tôi vào Ban vận động Quỹ độc lập để vận động giới công thương Hà Nội đóng góp tài chính cho cách mạng”.

NGƯỜI LÀM RẠNG DANH HỌ KHUẤT
Năm 1931, Khuất Duy Tiến bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Sự kiện người con trai duy nhất trong một gia đình giàu có, uy quyền bị bắt vì theo Việt Minh đã gây xôn xao khắp vùng, bởi trong mắt người dân, với một người con Chánh tổng, từng đỗ đạt Cao đẳng Thương mại thì đường quan lộ ắt sẽ hanh thông theo hướng ra “làm quan” cho chính quyền thực dân. “Đó chính là giai đoạn khó khăn nhất trong gia đình ông ngoại tôi, mọi phiền nhiễu, rắc rối bắt đầu nảy sinh, nhưng chính sự theo dõi, chèn ép, đe dọa đối với gia đình đã nung nấu tinh thần, ý chí cách mạng tới những người phụ nữ còn lại trong gia đình”, chị Nhân kể lại. Ngày đó, với truyền thống hiếu học của gia đình, lại chịu ảnh hưởng từ chí hướng tiến bộ của Khuất Duy Tiến nên những người chị, người em của ông đã lần lượt giác ngộ và tham gia cách mạng. Đó là các  bà: Khuất Thị Tuyện, Khuất Thị Thuân, Khuất Thị Bảy (phu nhân đồng chí Hoàng Quốc Việt), Khuất Thị Quyên (phu nhân đồng chí Lê Hiến Mai).

Khi kể về “cơ duyên” để nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt trở thành con rể họ Khuất, chị Nhân cho biết, chuyện bắt đầu từ khi ba chị và ông Khuất Duy Tiến là bạn tù ở Côn Đảo. Một hôm, ông Hoàng Quốc Việt thấy Khuất Duy Tiến giữ tấm ảnh chân dung bà cụ thân sinh. Nhìn ảnh, ông Việt thốt lên: “Ôi, bà cụ nhìn đẹp và phúc hậu quá!”. Ông Tiến liền bảo: “Nhà mình có mấy cô em đều xinh gái giống mẹ, khi nào về tớ sẽ gả cho cậu một đứa”. Ông Tiến còn bảo: “Phải xem có đứa nào giác ngộ cách mạng thì mới gả cho cậu được!”.

Câu đùa tếu táo ấy đã sớm thành hiện thực và Khuất Duy Tiến chính là “cầu nối” để người bạn tù trở thành em rể mình. Ở Côn Đảo về, mặc dù bị quản thúc nhưng Khuất Duy Tiến và Hoàng Quốc Việt vẫn thường xuyên lui tới làng Thuần Mỹ để gặp gỡ, bàn chuyện cách mạng. Theo thời gian, Hoàng Quốc Việt đã bén duyên Khuất Thị Bảy, người con thứ 7 của gia đình. “16 tuổi, mẹ tôi đã tham gia hoạt động cách mạng tại địa phương và khi người bạn tù Hoàng Quốc Việt thường xuyên lui tới để bàn việc nước với anh trai mình thì bà vẫn quen gọi “người chồng tương lai” là “anh già” hoặc “thượng cấp”, bởi mẹ kém ba tôi tới 18 tuổi”, chị Nhân cho biết.

Trở thành rể họ Khuất, giữa Hoàng Quốc Việt và Khuất Duy Tiến có một mối quan hệ rất thân tình, gắn bó, bởi họ vừa là anh em trong gia đình, dòng tộc, lại vừa là đồng chí, đồng đội cùng tham gia hoạt động cách mạng.

CÓ MỘT “TUẦN LỄ VÀNG” TRONG DÒNG TỘC
Trung tuần tháng 9-2015 mới đây, đúng vào dịp kỷ niệm 75 năm ra đời chi bộ Đảng đầu tiên ở địa phương, chúng tôi đã về xã Trạch Mỹ Lộc tham dự cuộc tọa đàm “Đồng chí Khuất Duy Tiến với phong trào cách mạng của quê hương”. Chủ trì cuộc tọa đàm hôm ấy là Bí thư Đảng ủy xã Khuất Duy Kim, một người con trong dòng họ Khuất. Anh Kim năm nay đang ở tuổi “ngũ thập” và từng có hàng chục năm công tác ở địa phương. Khi nói về một người bác trong dòng tộc, anh không khỏi tự hào và xúc động: “Chúng tôi biết nhiều về cuộc đời hoạt động của các bậc lão thành cách mạng thông qua những câu chuyện do ông bà, cha mẹ kể lại. Riêng với nhà cách mạng Khuất Duy Tiến, cuộc đời bác tôi như một “pho sử” được các cụ trong làng Thuần Mỹ “tái hiện” không dứt, từ năm này sang năm khác”.

Quả thật, cuộc tọa đàm diễn ra trong nửa ngày là chưa đủ để đại diện lãnh đạo xã, các nhà nghiên cứu và con cháu họ Khuất ôn lại những câu chuyện, những kỷ niệm với đồng chí Khuất Duy Tiến cùng các nhà cách mạng tiền bối, những người đã chọn Trạch Mỹ Lộc là địa bàn hoạt động trong kháng chiến chống Pháp. Ông Trần Văn Ẩm, nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Phúc Thọ, tâm sự: “Nói đến nhà cách mạng Khuất Duy Tiến là nói tới tấm gương dấn thân của một người giàu đi theo cách mạng. Bình thường, người nghèo đi theo cách mạng đã là quý, nhưng với bản thân đồng chí Khuất Duy Tiến và những người em gái của ông, việc làm của họ lại càng đáng trân trọng khi tự nguyện rời bỏ cuộc sống giàu sang trong gia đình Chánh tổng, bỏ dở việc học hành, tự nguyện dấn thân vào con đường gian khổ, rồi sau này chịu cảnh bắt bớ, tù đày”.

2014_290_08_a3
 

Chúng tôi tới thăm di tích lịch sử văn hóa miếu làng Thuần Mỹ, địa điểm đã trở thành nhà truyền thống và được Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hóa từ năm 1995. Những năm 1936-1946, nơi đây từng là cơ sở hoạt động của đồng chí Khuất Duy Tiến và nhiều cán bộ tiền bối của Trung ương như: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phan Trọng Tuệ, Lê Hiến Mai… Tại nhà truyền thống, trong số 9 cá nhân được vinh danh bằng có công với nước thì dòng họ Khuất có tới 8 người. Nơi đây hiện lưu giữ kỷ vật là chiếc va-li mây đựng tài liệu của đồng chí Tôn Đức Thắng năm 1946 cùng tấm ảnh đồng chí Tôn Đức Thắng gửi gia đình ông Khuất Duy Tri, một cơ sở cách mạng ở Trạch Mỹ Lộc. Tấm ảnh được gửi tới gia đình ngày 30-7-1954, phía sau bức ảnh, đồng chí Tôn Đức Thắng viết: Ở nhà anh hơn một năm, tôi không thể quên ông cụ và bà cụ. Tôi xin gửi đến anh bức ảnh này để tỏ lòng biết ơn và tình thân mến của tôi. “Ông cụ” mà đồng chí Tôn Đức Thắng nhắc đến là cụ Khuất Duy Huyên, bố đẻ của ông Khuất Duy Tri, người sau này là thư ký của đồng chí Tôn Đức Thắng.

Từ những kỷ vật này, chúng tôi được biết một chi tiết thú vị liên quan đến “Tuần lễ vàng” do Trung ương Đảng và Chính phủ phát động từ cách đây 70 năm, ngay sau ngày nước nhà giành được độc lập. Trong “Tuần lễ vàng” ấy, hai gia đình họ Khuất ở Trạch Mỹ Lộc đều có những đóng góp quan trọng.

Chị Hạ Chí Nhân kể: “Trong “Tuần lễ vàng”, thật ngẫu nhiên, ở 3 miền Bắc-Trung-Nam, cả 3 người ruột thịt trong gia đình tôi gồm bác tôi (Khuất Duy Tiến), bố tôi (Hoàng Quốc Việt), mẹ tôi (Khuất Thị Bảy) đều có mặt trong cuộc vận động giới tư sản tham gia”. Theo lời chị Nhân kể, ở Hà Nội, ông Khuất Duy Tiến đã giữ vai trò chính trong việc vận động giới doanh nhân Hà thành ủng hộ cách mạng, trong đó có gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô. Ở Huế, sau khi cùng phái đoàn ông Trần Huy Liệu vào dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại, bà Bảy đã làm công tác “triều đình vận”, thuyết phục Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho Hồ Chủ tịch và vận động Nam Phương Hoàng hậu đứng ra chủ trì “Tuần lễ vàng” ở Huế. Trong khi ấy, ở miền Nam, một người con rể của họ Khuất là ông Hoàng Quốc Việt cũng được Trung ương giao chủ trì phát động “Tuần lễ vàng” với kết quả quyên góp được hơn 2.000 lượng vàng và 20.000 đồng Đông Dương…

Chan dung
 

Cùng thời điểm đó, ở làng Thuần Mỹ, một gia đình họ Khuất khác đã âm thầm đóng góp công sức giúp đồng chí Tôn Đức Thắng thực hiện một nhiệm vụ bí mật: Chế tác số vàng quyên góp được thành những thỏi vàng để chuyển vào Nam mua vũ khí, đạn dược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Ông Khuất Duy Tri, con trai của cụ Khuất Duy Huyên, kể lại: “Ở quê khi đó không hề có một tiệm vàng nào, do đó việc đúc vàng thành thỏi được làm một cách hết sức bí mật tại gia đình tôi. Số vàng đúc thành thỏi trong những dụng cụ thô sơ và được cất giấu dưới một căn hầm kín ngay dưới giường nằm, sau đó được Trung ương đem mua vũ khí, máy móc hoặc chuyển vào Nam”. Ông Tri cũng cho biết, Viện Bảo tàng Tôn Đức Thắng đã về làng Thuần Mỹ sưu tầm kỷ vật của cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng và họ đã thu thập được những dụng cụ chế tác vàng trong thời kỳ đồng chí Tôn Đức Thắng hoạt động ở địa phương, trong đó có các lọ sứ, bễ thổi lửa, chum đựng a-xít…

Về Trạch Mỹ Lộc, chúng tôi được nhiều người dân và con cháu dòng tộc họ Khuất bày tỏ mong muốn Nhà nước sớm đầu tư, phục dựng những cơ sở cách mạng như: Căn nhà của cụ Khuất Duy Tiết (bố đẻ đồng chí Khuất Duy Tiến), cụ Khuất Duy Huyên, những căn hầm bí mật hoặc nơi cất giữ các thỏi vàng, thỏi bạc, những dụng cụ thô sơ từng được dùng vào việc chế tác, đúc vàng từ cách đây 70 năm… để vùng đất “địa linh” này sớm trở thành một cụm di tích lịch sử, góp phần vào việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.

Bùi Minh Tuệ
(Báo Quân đội Nhân dân, Hà Nội)